Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

Thằng bạn “ quái thai”


Nguyễn Quang Lập 
Sáng nay đọc báo, một phụ nữ 25 tuổi người Bắc Brazil sinh một cháu bé có hai đầu. Nhìn cái ảnh thấy ghê ghê, nghĩ bụng không biết sau này hai cái đầu có nghĩ giống nhau không nhỉ. Nếu nghĩ khác nhau, mà chắc là khác nhau, thì bỏ mẹ, hi hi. Chợt nhớ đến thằng Túc, bạn học thời phổ thông với mình, nó hay nói tao có hai cái đầu, một đầu tử tế một đầu bố láo, rứa mới điên.
Thằng Túc nhỏ nhắn trắng trẻo xinh xắn.Mình sơ tán lên làng Đông, lên lớp 5 mình học cùng lớp với nó cho đến năm lớp 10. Thằng Túc người làng Pháp Kệ, nhà nó một cha một con, buồn thiu. Cha con ít khi nói chuyện với nhau. Nó kêu bố nó bằng cậu, nói sáng tao đi học thì cậu tao chưa dậy,tao học về cậu tao đã ngủ trưa. Tao ăn xong ngủ trưa đến ba giờ chiều mới thức cậu tao ra đồng tối mịt mới về, khi đó tao đã nhảy đi chơi, chín mười giờ đêm tao về nhà cậu tao đã ngủ. Xong om. Nhưng rứa lại càng thích, trong làng tao là đứa duy nhất không bị cha đánh đập, mắng chửi, cực sướng.
Nó học giỏi, giải toán nhanh như chớp, phải cái tính nó bộp chộp, bài kiểm tra nào cũng thấy nó sửa chữa dập xóa be bét, chẳng có bài nào nó được điểm cao. Nó nhỏ nhất lớp cũng là thằng nghịch nhất lớp, ngày nào nó cũng bày ra một trò gì đó để mà cười. Lớp 5 cả lớp đang học, nó bò dưới ghế, lén cột tóc hai đứa con gái ngồi kề nhau, vẽ bậy bạ rồi móc vào tóc dán vào lưng áo con gái. Bọn con gái chửi nó như điên, nó cũng mặc kệ.
Một hôm kiếm đâu được con chuột chết, nó lén cột đuôi chuột vào tóc chị Lê. Giờ ra chơi, chị Lê đứng dậy, thấy con chuột chị sợ quá hét ầm lên bỏ chạy quanh lớp. Càn chạy con chuột càng đánh vào người, chị hét lên một tiếng, nói cha tổ mi Túc ơi, rồi ngất xỉu.Tưởng thằng Túc sợ, bỏ luôn trò chơi bậy bạ kia, té ra không, nó ra sức kiếm chuột chết cột tóc con gái. Bọn con gái xúm lại túm tóc nó đánh cho một trận thừa sống thiếu chết.
Thằng Túc có máu liều, thích thì chết nó cũng chơi, không sợ. Một hôm mình kể có thằng Toàn làng Phù Lưu ăn ớt rất tài, nó ăn ớt như ăn kẹo. Sáng nào đi học thằng Toàn cũng bỏ đầy một túi ớt mọi ( ớt chỉ thiên), ngồi học thỉnh thoảng nó moi ra một hai quả ớt nhai bỏm bẻm như nhai kẹo cao su vậy. Nó bảo ăn ớt để chống buồn ngủ. Mình rùng mình, nói mi không thấy cay à? Nó bảo không cay, ngon, cực ngon luôn.  Thằng Túc không tin, cười chê mình nói láo. Thằng này có cái cười hay lắm, mỗi khi cười mũi nói chun lại, miệng nhọn xòe ra y chang cái đít gà, hi hi.
Mình dắt thằng Túc đến nhà thằng Toàn, nói mi ăn ớt cho hắn coi, hắn nói tao nói láo. Thằng Toàn vào nhà bưng ra cạu ( rá nhỏ) đầy ớt mọi, bốc một nắm bỏ mồm nhai trước mặt thằng Túc, nhai như nhai khoai sống không hề hít hà. Thằng Túc chun mũi nhọn mồm cười, nói đồ ẻ. Rồi nó thản nhiên bốc một nắm ớt bỏ mồm nhai liền. Mình nhớ như in cái mặt đỏ rực của thằng Túc khi đó, hai tai cũng đỏ nhừ như ớt chín, mắt nó phồng lên như sắp nổ, nước mắt trào như suối, cả nước mũi nữa, cũng trào ra như suối. Thằng Túc cố nhai cố nuốt, cơ chừng không nuốt nổi nó khạc ra cả, vừa khạc vừa ho, nó ôm đầu lăn lộn ho ho khạc khạc. Mình và thằng Toàn ôm nhau cười. Thằng Túc bỗng chồm dậy cun mũi nhọn mồm, nói đồ ẻ, rồi lại bốc một nắm ớt bỏ mồm. Sau trận đó nó phải đi cấp cứu, cái mồm nó rách toác sưng vù. Kinh. Không ai liều như thằng này.
Chẳng ngờ cái máu liều ấy thằng Túc nuôi mãi cho đến già.
Nó thi trượt đại học, vào trường Trung cấp sư phạm Quảng Bình, được ba tháng thì bị đuổi học. Một buổi chiều nó lùa hết ba dây áo quần đang phơi của bọn con gái, ôm ra chợ Cộn bán, bị tóm ngay tại trận. Hai chín tết năm đó mình gặp nó ở chợ Ba Đồn, chưa kịp hỏi nó đã khoe ăn cắp bị đuổi học. Mình nói răng mi ngu rứa. Nó mũi chun mồm nhọn, nói tao phát hiện ra rồi, chỉ ăn cắp là nhất, nghề đó khỏe lại mau giàu. Mình nói mi điên à, mi có điên không Túc. Nó chun mũi nhọn mồm cười, nói tao là thằng quái thái mà, mi không biết à. Nhìn cái mồm nó nhọn xòe như cái đít gà vừa buồn cười vừa ghét.
Sáng mồng một, nghe dân Thị trấn kháo nhau, nói có một bọn ăn cắp Cửa hàng tổng hợp. Đúng giao thừa, chúng leo lên tháo mái ngói cửa hàng tổng hợp, cưa rui mè một ô chừng một mét vuông, chui xuống lấy cả chục chiếc xe đạp Phượng Hoàng. Đoán là thằng Túc làm bậy, mình chạy lên Cửa hàng tổng hợp, vừa lúc công an đang đẩy nó lên xe. Nó nhìn thấy mình liền vẫy vẫy, nói Lập Lập đi nha đi nha, rồi cười, mũi chun mồm nhọn. Nhìn cái mặt hơn hớn của nó y chang nó chào mình đi học nước ngoài, mình thực nghĩ không ra vì sao nó lại ra nông nổi ấy.
Từ đó đến chục năm sau mình không gặp nó lần nào, chỉ nghe bạn bè kể nó bị bắt bỏ tù ba bốn lần gì đấy, tất cả chỉ vì tội ăn cắp, toàn ăn cắp của Nhà nước. Năm 1987 mình gặp thằng Hòa bạn học cùng lớp thời phổ thông với mình và thằng Túc, cũng người làng Pháp Kệ. Mình hỏi thằng Hòa, nói mi có biết tin tức gì thằng Túc không. Thằng Hòa nói không, chẳng đứa nào biết cả. Chắc nó bây giờ cũng tu tỉnh lo làm ăn rồi, không lẽ ăn cắp suốt đời. Chẳng dè tết năm sau, mình đem vợ con từ Ba Đồn vào Huế, vừa lên xe đặt đít ngồi bỗng có tiếng gọi rất vui vẻ, nói ê Lập. Mình ngoảnh lại thấy thằng Túc, nó đang chun mũi nhọn mồm cười.
Thằng Túc ngồi sau mình hai hàng ghế, mình nhoài người bắt tay nó, nó lắc đầu và dơ lên hai tay bị còng của nó. Té ra nó trốn tù chạy về quê, chưa kịp ngủ nhà một đêm đã bị bắt. Cả xe nhìn nó như nhìn thằng hủi, nó tỉnh bơ cười cười nói nói, còn khoe với hai công an áp giải nó, nói Nguyễn Quang Lập đó, học với tui từ lớp 5 đến lớp 10, hồi nhỏ thân nhau lắm. Bây giờ hắn viết báo viết văn còn tui ăn cắp, mỗi người một nghề, rứa thôi. Mình vừa thẹn vừa thương nó, đành ngồi im chẳng dám nói gì.
Xe dừng Đồng Hới lấy xăng, cho hành khách đi ăn sáng. Mình mua bát phở mời nó, năn nỉ hai ông công an mở còng cho nó ăn. Hai ông công an nhìn mình rất khinh bỉ, nói nhà văn nhà báo mà cũng  bạn bè với loại này à. Đang nịnh họ để họ động lòng tháo còng cho nó, dù tức lắm mình cũng cố nín nhịn. Thằng Túc được tháo còng, nó vừa ăn vừa nói cười như không, nói bây giờ tao ăn ớt được rồi, không tin mi kiếm ớt đưa đây. Đồ ẻ, tao ăn cả cạu, không thèm ăn một nắm như thằng Toàn mô.
Hơn hai chục năm sau, mình lại gặp thằng Hòa, nó bây giờ là ông đại tá về hưu. Nó bảo thằng Túc bây giờ ở Vũng Tàu, một vợ hai con nhưng đói khổ lắm. Vợ nó là con gái một đại ca đạo chích, thấy thằng Túc ăn cắp giỏi mới gả con gái cho. Thằng Hòa gọi máy cho mình nói chuyện, nghe tiếng mình, thằng Túc cười nói rất to, nói tao vừa xem cái kịch của mi trên ti vi, đ. mạ hay gớm. Mình hỏi mi bây chừ làm chi, nó cười hì hì, nói rứa thôi rứa thôi. Rồi ngâm nga, nói đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Năm mới thắng lợi mới nha nha, ha ha ha.
Mình ngồi thừ chẳng biết nói gì. Bây giờ đang viết những dòng này, cái mũi chun mồm nhọn của nó đang vật vờ trước mặt

Trần Đăng Khoa bảo vệ gu ăn mặc của mình

 
(VOV) - Khoác comple thì trông cứ như lão tây gỗ. Diện thường phục thì hóa ra thằng bù nhìn canh dưa, ban ngày dọa trâu bò, gà vịt, ban đêm lại dọa người. Trông nghịch mắt lắm

Trần Đăng Khoa nói về trang phục chị em
Khi tôi thành kính ngắm trang phục chị em trên Blog tòa soạn, Bạn Viet Bom bảo: “Người đẹp vì lụa…” đối với mọi người đều đúng. Nhưng đối với Trần Đăng Khoa thì ngược lại. Mặc xấu, tềnh toàng mới đúng là Trần Đăng Khoa. Mặc đẹp thì trông Khoa lại chẳng ra gì. Bạn Mai Lê cũng bảo: “Vào ngay VOV xem TĐK bàn về trang phục phụ nữ. Tôi nghĩ bụng, ông này biết quái gì về trang phục. Trông ông ấy ăn mặc nhếch nhác chết đi được, lúc nào cũng như ông bộ đội về hưu đi bán su hào. Thế mà lại bàn về quần áo mốt phụ nữ…”.

Chân dung hí họa Trần Đăng Khoa
Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Nhật Minh khẳng định: “Chỉ trông thoáng qua thôi là tớ nhận ra cậu ngay. Vì cách ăn mặc của cậu rất đặc biệt, chẳng giống ai. Cậu coi thiên hạ đều mù hết cả!”. Thực tình, tôi không phải là người cẩu thả. Cũng đỏm dáng lắm, chải chuốt lắm. Bạn tôi là Nhà Tạo mốt Thời trang. Gặp tôi lần nào, anh cũng cằn nhằn: “Cậu thật chẳng còn ra làm sao cả. Giản dị không có nghĩa là luộm thuộm, cẩu thả. Mình mặc đẹp, lịch sự, không phải là đỏm dáng. Đấy là mình tôn trọng mọi người. Cậu thì cứ coi thiên hạ bằng nửa con mắt...”.
“Gớm, có gì mà ông kết tội tôi nặng thế? Tôi cũng là thằng lẳng lơ lắm đấy! Nhưng mà thử hết rồi. Chẳng có bộ trang phục nào được cả. Khoác comple thì trông cứ như lão tây gỗ. Diện thường phục thì hóa ra thằng bù nhìn canh dưa, ban ngày dọa trâu bò, gà vịt, ban đêm lại dọa người. Trông nghịch mắt lắm. Thôi đành bốn mùa quần áo lính, không quân hàm quân hiệu, cứ như anh cựu chiến binh buôn dưa lê. Xem ra "mốt" ấy lại hợp với cái mặt rất khó xác định niên đại của mình” “ Cậu thật chả hiểu gì cả. - Anh bạn tôi cười - Cậu không tìm được bộ cánh nào phù hợp, vì cậu chỉ tìm đến cửa hàng quần áo may sẵn. Quần áo may sẵn là trang phục dành cho tất cả mọi người, trừ cậu. Vì cậu cóc phải người. Cậu là ma quỷ. Là người ngoài hành tinh...”
Lại còn thế nữa! Tôi trố mắt kinh ngạc nhìn ông bạn đã biến thành thầy phù thủy từ lúc nào với bao nhiêu lý luận bùa ngải. “Thật đấy! Tớ không đùa đâu. Để có được bộ trang phục thật hợp với mình, cậu phải chịu khó tìm đến các Nhà tạo mốt!”. Khiếp! Tôi đã bàn trên Blog tòa soạn rồi. Xưa nay, tôi cứ hình dung Nhà tạo mốt là chuyên gia thẩm mỹ, dùng vải vóc tôn vinh những đường nét óng nuột, mềm mại của các mỹ nhân hay dáng vẻ sang trọng của các bậc quý ông. Hóa ra nhầm, giời ạ! Cứ như lời ông phù thủy bạn tôi thì nhà tạo mốt chính là đại gia chuyên may sắm trang phục cho ... ma quỷ. Nghe mà rùng rợn quá!
“Cậu đừng có xuyên tạc tớ nhé, kẻo rồi các nhà tạo mốt họ lại nổi giận, cho là tớ nói xằng. Thú thật với cậu, tớ luôn săn đuổi mốt. Theo dõi mốt cũng hay lắm. Tớ không tin lại có những bộ mốt bày bán sẵn, dùng chung cho tất cả mọi người như một thứ cơm bụi. Nhà tạo mốt là người sáng tác trang phục dựa theo từng vóc dáng cụ thể. Đối tượng chính của họ là con người. Họ dùng vải vóc để phô ra vẻ đẹp của con người và giấu đi những khiếm khuyết. Quần áo nhằm tôn vinh con người, chứ không phải con người tôn vinh quần áo. Xem nhiều buổi biểu diễn thời trang, tớ khiếp quá, vì chẳng thấy người đâu cả, chỉ có những bộ trang phục đi phơ phất như ma. Không thể gọi những ông bà thợ may phố huyện ấy là các nhà tạo mốt được. Vì họ đã biến những cô người mẫu xinh đẹp duyên dáng thành những cái cọc di động, treo mắc những tấm vải xanh đỏ, rùm ròa.
Ông bạn tôi tỏ ra rất sùng bái các nhà tạo mốt. Cứ như lời anh, chỉ cần nhà tạo mốt lé mắt đến tôi là lập tức, tôi sẽ lên đến "mấy chân kính". Người đẹp vì lụa mà. Thế rồi, anh quyết định đưa tôi đi "đắp lụa". Anh dẫn tôi đến một cửa hiệu tạo mốt có tiếng của đất Hà thành. Thế rồi nửa tháng sau, anh lại đưa tôi đến lấy trang phục, rồi chính tự tay anh chỉnh đốn trang phục cho tôi: “Tuyệt. Trông cậu cứ như một chính khách ấy. Hóa ra cậu thuộc hạng đẹp giai, chứ đâu có xoàng. Chỉ tiếc là cậu không biết cách ăn mặc. Đấy, cậu thử ra gương soi xem có đúng là cậu vừa lột xác không nào?”
Tôi hồi hộp đến trước gương. Quả là tôi vừa "lột xác" thật. Trong gương, lù lù một cái chum đeo cà vạt và đội mũ nồi.../.

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

Tư liệu: Cuộc sống thường ngày trên đảo Hoàng Sa


XUYÊN TUYẾT
Ông Lê Đình Rê, thuyền trưởng tàu QV 9708 (thuộc căn cứ chuyển vận Đà Nẵng) nhân chứng duy nhất trên tàu cứu hộ còn sống tại Đà Nẵng lưu giữ những kỷ vật về con tàu ra Hoàng Sa cứu hộ sau năm 1974.
Tại Bảo tàng Đà Nẵng, hàng trăm kỷ vật Hoàng Sa được ngành chức năng Đà Nẵng cẩn trọng lưu giữ, trưng bày giới thiệu với người dân, du khách. Đây không chỉ là những bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà là những kỷ niệm không thể phai mờ với những người từng góp sức giữ đảo. Ngay tại nhà dân, Hoàng Sa trong ký ức những người lính, cán bộ khí tượng thủy văn, kiến tạo xây dựng đảo hàng chục năm về trước đầy tươi đẹp, yên bình.
Theo ông Đặng Công Ngữ, Giám đốc Sở Nội vụ TP Đà Nẵng, Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa: công tác tiếp nhận, sưu tầm bằng chứng, kỷ vật Hoàng Sa luôn được người dân hưởng ứng, đặc biệt với những người từng công tác tại Hoàng Sa nhiều thập niên trước. Những đồ vật gần gũi, thân thương, gắn với cuộc sống, công tác của người dân trên đảo. Nhiều người gìn giữ chúng như báu vật nhưng khi được trao tặng cho Đà Nẵng, họ đều vui mừng vì đó là trách nhiệm, niềm vinh dự góp phần đưa Hoàng Sa đến gần với mọi người dân, du khách.
Nồi đun nước bằng đất nung do những người lính Đội quân Hoàng Sa đem ra đảo từ thế kỷ 16 – 17
Nồi đun nước bằng đất nung do những người lính Đội quân Hoàng Sa đem ra đảo từ thế kỷ 16 – 17
Tủ đa chức năng vừa để đồ vừa làm nơi ngủ của những người lính Hoàng Sa
Tủ đa chức năng vừa để đồ vừa làm nơi ngủ của những người lính Hoàng Sa
Chum đồng đựng nước ngoài Hoàng Sa của người Việt
Chum đồng đựng nước ngoài Hoàng Sa của người Việt
Nồi đun cơm của những người lính Đội Hoàng Sa
Nồi đun cơm của những người lính Đội Hoàng Sa
Vò đựng gạo không thể thiếu của đội quân Hoàng Sa.
Vò đựng gạo không thể thiếu của đội quân Hoàng Sa.
Mô hình thuyền bầu của đội quân Hoàng Sa, giúp ra đảo từ thế kỷ 16 – 17
Mô hình thuyền bầu của đội quân Hoàng Sa, giúp ra đảo từ thế kỷ 16 – 17
Ông Phan Khôi (sinh năm 1942, đường Quang Trung, quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng) được vào Trung đội Hoàng Sa (thuộc tiểu khu Quảng Nam) từ cuối năm 1969. Nhiệm vụ của ông kiểm kê tàu thuyền ra vào đảo, báo cáo tin tức về sở chỉ huy và hỗ trợ phương tiện gặp nạn ngoài Hoàng Sa và bảo vệ chủ quyền. Hơn 40 năm, ông Khôi vẫn nhớ từng con đường, ngôi nhà, kiến trúc đơn sơ, yên bình của đảo. Ông là người duy nhất tự họa lại bản đồ Hoàng Sa như một kỷ vật thiêng liêng của đời mình cho huyện đảo Hoàng Sa
Ông Phan Khôi (sinh năm 1942, đường Quang Trung, quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng) được vào Trung đội Hoàng Sa (thuộc tiểu khu Quảng Nam) từ cuối năm 1969. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê tàu thuyền ra vào đảo, báo cáo tin tức về sở chỉ huy và hỗ trợ phương tiện gặp nạn ngoài Hoàng Sa và bảo vệ chủ quyền. Hơn 40 năm, ông Khôi vẫn nhớ từng con đường, ngôi nhà, kiến trúc đơn sơ, yên bình của đảo.
a
Ông là người duy nhất tự họa lại bản đồ Hoàng Sa như một kỷ vật thiêng liêng của đời mình cho huyện đảo Hoàng Sa
Tấm hình chụp cầu cảng Hoàng Sa được ông Nguyễn Văn Cúc (60 tuổi, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) gìn giữ như vật báu. Ông Cúc làm nhiệm vụ sửa chữa, xây dựng các công trình dân sinh, dân sự trên đảo. Trong năm 1973, ông có đến 3 lần ra đảo làm nhiệm vụ. Lần cuối cùng cuối năm 1973, ông là nhân chứng trực tiếp trên đảo, chứng kiện trận hải chiến Hoàng Sa. Đảo thiêng bị rơi vào tay Trung Quốc. “Nỗi buồn mất Hoàng Sa, những lúc nhớ thương đảo tôi lại lấy tấm hình ra xem như gợi nhắc lại thời bình yên đáng quý trên đảo” – ông Cúc tâm sự.
Tấm hình chụp cầu cảng Hoàng Sa được ông Nguyễn Văn Cúc (60 tuổi, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng) gìn giữ như vật báu. Ông Cúc làm nhiệm vụ sửa chữa, xây dựng các công trình dân sinh, dân sự trên đảo. Trong năm 1973, ông có đến 3 lần ra đảo làm nhiệm vụ.
Ông Lê Đình Rê, thuyền trưởng tàu QV 9708 (thuộc căn cứ chuyển vận Đà Nẵng) nhân chứng duy nhất trên tàu cứu hộ còn sống tại Đà Nẵng lưu giữ nhửng kỷ vật về con tàu ra Hoàng Sa cứu hộ sau hải chiến năm 1974. Với ông, cảm giác bị mất Hoàng Sa tiếc thương như mất máu thịt, những gì rất đỗi thiêng liêng. “Hoàng Sa là của Việt Nam và sẽ mãi mãi là của Việt Nam” – ông Rê bộc bạch.
Ông Lê Đình Rê, thuyền trưởng tàu QV 9708 (thuộc căn cứ chuyển vận Đà Nẵng) nhân chứng duy nhất trên tàu cứu hộ còn sống tại Đà Nẵng lưu giữ những kỷ vật về con tàu ra Hoàng Sa cứu hộ sau năm 1974.
Theo bee.net

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011

Bắc Triều Tiên, câu hỏi lớn chưa có lời giải


Vũ khí ba thế hệ
NQL: Chưa rõ tác giả bài viết là ai, đọc thì biết đây là bài nói chuyện của một người đã từng công tác ở Bắc Hàn 30 năm. Có nhiều tư liệu quí, độc, đáng suy ngẫm.
Thông tin về Bắc Triều Tiên có rất ít, thậm chí chúng tôi đã làm về Bắc Triều Tiên hơn 30 năm rồi mà cũng chưa giải đáp được những câu hỏi mà các anh lúc nãy đã sơ bộ nêu ra, không biết Bắc Triều Tiên là cái gì đâu. Bây giờ, tôi chưa có tham vọng trả lời với các anh cái ông này nó thế nào, chế độ này nó ra làm sao, hay nó là loại gì trong lịch sử nhân loại. Tôi chỉ xin kể lại những điều mắt thấy tai nghe, những gì đã cảm nhận được trong suốt một thời gian dài công tác ở đây. Thực tế trong quá trình công tác nhiều năm cũng không có những nguồn thông tin gì thực sự đáng tin cậy, cũng là nghe qua người này, người kia, qua bộ phận này, bộ phận khác. Không có một loại tài liệu gì mang tính chất chính thống mà người ta đưa ra.
Tôi chỉ có tham vọng báo cáo để các anh đứng ở góc độ cương vị công tác của mình và trên nhiều góc độ khác để có nhận xét về chế độ, về vị lãnh đạo này, về cái Đảng này nó như thế nào? Gần đây, Bắc Triều Tiên có mấy sự kiện lớn: Vấn đề hạt nhân. Gần đây nhất là vấn đề máy bay trinh thám của Mỹ bay vào không phận Bắc Triều Tiên. Trước đây Bắc Triều Tiên đã rình cái máy bay này mấy lần rồi, nhưng không làm sao bắt được quả tang. Lần này đã có sự chuẩn bị từ trước, Bắc Triều Tiên cho xuất phát 4 máy bay MIC 29, đuổi khoảng 20 phút trên bầu trời, có lúc hai bên đã tiếp cận cách nhau 14, 15 mét. Bắc Triều Tiên đã kiềm chế không bắn, vì nếu bắn thì không bao giờ nó rơi trên đất Bắc Triều Tiên được. Theo địa hình bản đồ Bắc Triều Tiên các anh sẽ rõ vì khi bị đuổi bao giờ máy bay cũng chạy ra phía biển; nếu có bắn trúng thì nó cũng bay được thêm 500 – 600 km ra ngoài biển, rồi mới rơi, lúc đó cãi nhau thì mệt lắm. Bên thì bảo tôi còn bay ở ngoài, anh bắn tôi, bên thì bảo anh đã vào đất liền của tôi, tôi bắn. Nhưng tang chứng thì máy bay lại rơi ngoài biển khơi.
Trước đây, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên cũng rất phức tạp. Bắc Triều Tiên không có khả năng cạnh tranh về kinh tế với Hàn Quốc. Do đó người ta mới nghĩ ra cần có một con bài gì đó để mặc cả. Bắc Triều Tiên đưa ra chính sách phát triển về kinh tế là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Trong công nghiệp nặng lại ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, mà công nghiệp quốc phòng thì lại vô cùng tốn kém: một khẩu súng bằng cả mấy cái máy cày, một quả tên lửa tính ra không biết bao nhiêu tiền của. Do đó từ khi theo con đường này, kinh tế Bắc Triều Tiên cứ luôn luôn bị lệch lạc. Bắc Triều Tiên coi nhẹ công nghiệp nhẹ và nông nghiệp cho nên đời sống nhân dân rất khổ, phải thắt lưng buộc bụng từ khi thành lập nước đến tận bây giờ.
Sang thế kỷ XXI, các nước XHCN phát triển nhanh chóng, nhưng Bắc Triều Tiên vẫn cứ thắt lưng buộc bụng, vẫn đói.
Ở Hàn Quốc còn có Sam Sung, LG Tivi, máy giặt bán trên thế giới, nhưng mà không thể tìm thấy một thứ đồ dùng gì của Bắc Triều Tiên đưa ra thế giới. Người ta nói rằng từ ngày ông Kim Nhật Thành mất đi (1994) ông đã mang theo tất cả những tinh hoa của đất nước. Vì vậy, khi ông Kim Châng In lên thay, đã không lãnh đạo được, để dân chết đói ghê quá. Tính đến năm 1994-1997, theo hãng thông tin cho biết, Bắc Triều Tiên đã để dân chết đói đến 2,8 triệu người, hơn con số ta chết đói năm 1945, khi Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, chỉ có 2 triệu. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI mà một nước XHCN đã để cho dân chết 2,8 triệu, đây là một tội ác, là rất vô nhân đạo. Một chị người Triều Tiên, vừa được sang lấy chồng Việt Nam đã nói với tôi: “Anh ạ, không phải là không có một con đường để Triều Tiên thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, có nhưng người ta không đi. Tại sao tôi biết, vì khi tôi vào Sứ quán Hàn Quốc ở khách sạn Deawoo, có một thư viện rất lớn. Tôi đọc sách, tôi mới thấy rõ ràng là có con đường khác mà lãnh tụ của tôi không đi, cứ đi theo con đường này, cho nên dân tôi chết đói. Từ xưa đến nay tôi được giáo dục những điều không đúng sự thật”. Đây là điều ta đáng phải suy nghĩ.
Theo bản đồ thì Bắc Triều Tiên phía Bắc giáp Trung Quốc khoảng 1300 km, có biên giới rất lớn; phía Đông giáp với Liên Xô có 16 km; phía Nam giáp với Hàn Quốc ở vĩ tuyến 38. Phía bên này giáp biển Tây là Trung Quốc; giáp biển Đông là Nhật Bản. Từ đó ta thấy Bắc Triều Tiên là một nước vừa nghèo vừa nhỏ nằm kẹp giữa các cường quốc: Trung Quốc, Nga, Nhật Bản; phía Nam giáp biên giới là người anh em Hàn Quốc, mặc dù chưa phải là cường quốc nhưng là một nước phát triển. Theo ông Tổng thống mới nhất của Hàn Quốc khi nhận chức đã công bố Hàn Quốc đứng hàng thứ 12 Thế giới là loại mạnh rồi.
Vị trí địa lý chính trị làm cho Bắc Triều Tiên ở vào thế rất bị o ép. Từ đó sự an nguy của Bắc Triều Tiên phụ thuộc rất nhiều yếu tố chi phối của các nước lớn này. Chính vì thế mà vấn đề định hướng cho Bắc Triều Tiên, nói rộng ra là cả bán đảo Triều Tiên, vấn đề thống nhất Nam-Bắc (Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc) không hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của nhân dân, hay là ý muốn của Ban Lãnh đạo, mà nó còn phụ thuộc vào lợi ích của các nước lớn xung quanh.
Như các đồng chí đã biết trên thế giới có 3 loại nước bị chia cắt là Đông Đức, Việt Nam và Nam Bắc Triều Tiên. Việt Nam đã thực hiện được thống nhất đất nước theo kiểu của ta. Đông Đức thì thống nhất theo kiểu sáp nhập tức là bên này nuốt chửng bên kia. Theo Hàn Quốc nếu sáp nhập theo kiểu này thì họ không thể cáng đáng nổi, vì Đông Đức ngày xưa so với các nước XHCN khác là vào loại khá. Khi sáp nhập thì Tây Đức đã thấy đây là một gánh nặng đến bây giờ vẫn chưa gỡ ra được, vẫn như cái hố trong nền nhà. Sự phân biệt giữa người Đông Đức và người Tây Đức vẫn còn tồn tại nhiều năm nay. Hàn Quốc cho rằng nếu thống nhất như kiểu Tây Đức thì không kham nổi, tức là phải cõng một ông anh què quặt trên lưng, đi trên một con đường rất dài chưa biết đến bao giờ ông ấy khỏe chân để đặt xuống dắt ông ấy đi. Tính đến bây giờ về tiềm lực kinh tế năm nay tổng sản phẩm quốc dân của Bắc Triều Tiên mới có khoảng 15 tỷ, có ngân hàng nói chỉ có 10 tỷ. Trong khi đó, tổng sản phẩm quốc dân của Hàn Quốc năm 2001 đã là 546 tỷ, một con số chênh lệch quá đáng. Bây giờ muốn thống nhất được trước hết phải tăng cường giao lưu, đầu tư vào Bắc Triều Tiên, vì đằng nào cũng phải đầu tư ra nước ngoài, chi bằng đầu tư lên miền Bắc, cùng một dân tộc, cùng một tính chất, cùng một con người, cùng một tiếng nói thì hiệu quả đầu tư nó sẽ cao hơn. Như vậy Bắc Triều Tiên sẽ phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật khá dần lên, dần dần hai bên bớt sự chênh lệch, gần nhau hơn thì may ra mới thống nhất được. Ông Tổng thống Kim Tê Chung nói: Việc thống nhất của chúng tôi còn rất lâu dài.
Mẫu thứ hai để thống nhất là Việt Nam, dùng chiến tranh bạo lực thì Hàn Quốc không muốn vì thấy cái giá phải trả nó đắt quá.
Năm 1995, Tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm Hàn Quốc. Chủ tịch Đảng cầm quyền là Tổng thống Hàn Quốc đã hỏi Tổng bí thư Đỗ Mười: “Ông có lời khuyên nào cho việc thống nhất của chúng tôi không?”. Đồng chí Đỗ Mười chỉ nói một câu: “Nếu cho tôi có một lời khuyên thì không dùng biện pháp chiến tranh vì nó rất đắt”. Đại ý nói như vậy.
Hàn Quốc cũng không muốn như vậy vì đất nước đã phát triển ổn định, muốn ổn định để phát triển đi lên.
Vậy thì phải chọn ra con đường thứ ba, không phải kiểu Đức hay kiểu Việt Nam, mà là kiểu dần dần tiến tới đoàn kết dân tộc, tăng cường giao lưu hợp tác, rồi tiến tới thống nhất. Con đường này sẽ rất dài, phải 20 năm hoặc 50, 70 năm trở ra. Dân số Bắc Triều Tiên tính đến năm 2001 có khoảng 22 triệu rưỡi. Hàn Quốc có khoảng 46 triệu (gấp đôi). Diện tích cũng gấp đôi, tiềm lực kinh tế thì Hàn Quốc gấp ba bốn chục lần. Thủ đô của Bắc Triều Tiên là Bình Nhưỡng, là một thủ đô tương đối đẹp. Trong quyển sách “Những nền văn minh thế giới” đã liệt thủ đô Bình Nhưỡng là một trong những thủ đô đẹp của thế giới. Sau chiến tranh Triều Tiên 1952-1953, thủ đô Bình Nhưỡng bị san bằng tất cả. Sau đó Liên Xô đứng ra thiết kế lại toàn bộ, cho quy hoạch xây dựng Thủ đô. Quy hoạch này được thiết kế rất hoàn chỉnh, xây rất lớn, như tòa thư viện nhân dân ở giữa thủ đô, Hội trường Quốc hội rất lớn và đẹp, kè của con sông Đại Đồng chảy qua thủ đô đẹp mỹ mãn. Cho đến bây giờ vẫn theo quy hoạch này. Chỉ tội cái nền khoa học kỹ thuật, kinh tế yếu nên trông nó rất buồn tẻ, nhưng lúc nào cũng cảm thấy nó thanh bình, như cây liễu rủ bên sông Đại Đồng, đường phố thì rộng lớn, đẹp đẽ và quy củ. Xã hội rất ngăn nắp, giáo dục rất nghiêm chỉnh tất nhiên là rất lạc hậu.
Lãnh đạo của Bắc Triều Tiên bây giờ là ông Kim Châng In (Kim Chính Nhật), giữ chức Tổng bí thư Đảng Lao động Triều Tiên – chứ không phải là Tổng bí thư của Ban Chấp hành – Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội là ông Kim Iâng Nam. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội có vai trò đối ngoại như nguyên thủ quốc gia, giống như Nhật Hoàng. Các công việc như Trình quốc thư, ký giấy ủy nhiệm, ban bố sắc lệnh đều do Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội ký.
Sau đó mới đến ông Chê Chung Ốc, Chủ tịch Quốc hội. Ông này chẳng khác gì ông từ giữ đền. Hôm nào họp thì ông trải chiếu, giống như Văn phòng của ta. Danh nghĩa là Chủ tịch Quốc hội, nhưng thực quyền thì không có. Tất cả thực quyền đều tập trung vào ông Kim Châng In. Còn ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì không có gì đáng nói.
Chế độ của Bắc Triều Tiên danh chính ngôn thuận gọi là XHCN theo kiểu Triều Tiên. XHCN kiểu Triều Tiên này cũng có rất nhiều cái khó hiểu, một chế độ phong kiến, độc đoán, gia đình trị. Phong kiến vì lễ giáo rất nặng nề, cấp trên cấp dưới sùng bái. Nếu ai không sùng bái ông ấy là đã mất đầu rồi, chưa nói là chống lại, nếu chống lại thì không bao giờ tồn tại. Tệ sùng bái này được kế thừa từ ông bố Kim Nhật Thành. Ở Triều Tiên hiện nay mọi người đều đeo một cái huy hiệu rất to. Có 3, 4 loại huy hiệu; có loại một ảnh là ông Kim Nhật Thành, hoặc ông Kim Châng In rất to; có 2 loại ảnh thì hai ông cùng ngồi. Có phân cấp từng loại một. Tệ sùng bái này bây giờ vẫn còn nặng nề vô cùng. Trung Quốc hiện nay đã bỏ các huy hiệu và ngũ lục Mao Trạch Đông. Thời Kim Nhật Thành còn sống, khi anh chị em gặp nhau trên đường, không bao giờ được phép chào hỏi nhau về sức khỏe, mà phải hỏi nhau đã đọc trước tác Kim Nhật Thành đến chương mấy rồi. Nếu có người thứ 3 ở đấy mà lại hỏi nhau về con cái, sức khỏe thì sau đấy rất phiền toái. Một ngày một người có 12 giờ ở cơ quan gồm: 8 giờ làm công việc được giao, 2 giờ lao động công ích như quét tước ở xung quanh cơ quan, xí nghiệp hay nhà máy, sau đó có 2 giờ ngồi đọc trước tác Kim Nhật Thành.
Học sinh trung học, cấp 2, cấp 3 hay Đại học thì không có lúc nào được phép ngồi để suy nghĩ. Vì ngồi suy nghĩ lại lẩn thẩn nghĩ tại sao mình khổ, tại sao bố mẹ mình lao động 12 tiếng một ngày mà vẫn nghèo. Người ta không muốn có thời gian để suy nghĩ cá nhân, bắt phải đi học, học ở trên lớp xong, về nhà ăn cơm trưa xong thì ra tập múa hát (Hát toàn những bài ca ngợi ông Kim Nhật Thành). Sau đó là lao động công ích, học trước tác. Đến tối là về nghỉ ngơi, ăn cơm. Có những ông giáo nói không bao giờ biết mặt con vì sáng sớm đi làm con chưa ngủ dậy, tối khuya mới về thì con đã đi ngủ. Con mấy tuổi mà vẫn không biết mặt. Cường độ lao động rất căng thẳng. Một xã hội rất nặng nề. Các nước phương Tây gọi xã hội này là binh doanh xã hội, tức là trại lính. Mới nhìn vào thì thấy xã hội rất quy củ, nền nếp, nhưng đi sâu vào thì thấy nó nặng nề lắm. Có một ông Đại sứ Angiêri khi mới sang có nói một xã hội như thế này mà tại sao người ta cứ chửi bới, phong cảnh thì đẹp đẽ, con người thì nền nếp – ông được đi tham quan, dự tiệc tùng. Một tháng sau, sau khi trình quốc thư thì ông bắt đầu chửi Triều Tiên: Sao lại có một xã hội kỳ dị như thế. Mùa đông thì không có lò sưởi, vào nhà làm việc chỉ được 10 phút là phải về, nếu lâu một chút là đau đầu gối, ngồi lâu thì đau lưng vì lạnh quá.
Đến tháng thứ hai thì ông ta chửi thậm tệ: Tại sao một xã hội để cho dân khổ thế này, bắt dân mang giẻ đi lau từng thanh ray, thanh sắt trên cầu, nhiều cái rất vô lý.
Nếu có sang thăm Bắc Triều Tiên, ở độ một tuần thì thấy rất đẹp, nhưng đến một tháng trở ra thì chán lắm. Tôi đã ở bên ấy 15 năm, chịu hết nổi. Những năm 60, 70 ra chợ còn mua được túi táo. Khóa trước khóa vừa rồi thì không còn nữa. Tất cả đều phải mua ở Bắc Kinh. Hàng tháng đại sứ ta cử người đi bằng tàu hỏa sang Bắc Kinh, một ngày đi, một ngày về, 3 ngày đi mua sắm và chuẩn bị. Tất cả các loại thực phẩm gạo, thịt, cá đều mua ở Bắc Kinh, sau đó đưa về sứ quán chia cho anh chị em theo đăng ký của từng người, từng gia đình, còn lại Sứ quán dùng để chiêu đãi hoặc tiếp khách.
Có lần phòng thông tin của Sứ quán cần 20 mét dây điện để làm việc. Các anh đánh xe đi khắp nơi khoảng 2 – 3 tiếng mà không mua được vì các cửa hàng đều không có.
Tôi có cô con gái được sang Xê Un học tập. Trước đó cháu có qua Bình Nhưỡng thăm chúng tôi. Gia đình muốn chụp một kiều ảnh kỷ niệm. Chúng tôi đi 3, 4 cửa hàng, có cửa hàng chỉ còn 1 kiểu, có cửa hàng không có phim, đến một cửa hàng còn 3, 4 kiểu nhưng máy lại rất cổ, không có độ rum, phòng chụp thì bé, người thì nhiều nên chụp không đẹp. Sau đó cháu sang Xê Un, có biên thư cho chúng tôi nói ở Xê Un chẳng thiếu thứ gì.
Năm 2001, có đoàn của Bộ Văn hóa do một đồng chí thứ trưởng dẫn đầu (anh Phúc) sang thăm Triều Tiên, có mang 5.000 tấn gạo để tặng bạn. Qua Bắc Kinh có gặp tôi, anh đề nghị tôi cho vài đường chỉ dẫn (anh nói vui vậy). Tôi có nói: Anh là thứ trưởng, thuộc loại cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước; hai là lại mang quà sang; ba là lại sang vào cuối tháng 4 – mà tháng 4 là tháng có ngày sinh của ông Kim Nhật Thành – thì rất thuận lợi cho anh. Ba yếu tố đó đã tạo cho anh một cái thẻ của một vị khách được trọng vọng. Nhưng tôi cũng phải nói với anh tại thủ đô Bình Nhưỡng không có điện đường. Anh ấy bảo cậu cứ dọa tớ, thủ đô mà lại không có điện đường. Tại sao tôi nói vậy, vì trước đây có đoàn của anh Vũ Khoan, anh Phạm Tất Đang sang, bạn cho ở tại Khách sạn 5 sao. Khi vào nhà vệ sinh, thấy có một cái bồn tắm để đầy nước, anh tháo nước đi, đến khi đi vệ sinh xong thì không có nước để dội. Gọi người phục vụ thì họ nói: nước chứa trong bồn tắm là nước để dùng cả ngày. Bây giờ phải xin nước ở phòng khác để dùng.
Một ngày thường mất điện không bao giờ dưới 10 lần. Một lần tôi thí điểm bằng cái máy cắt, cứ mỗi lần có điện trở lại thì nó lại cắt đi một đoạn dây bằng cái phong bì. Từ 16 giờ hôm trước đến 8 giờ hôm sau, tôi kiểm tra có 24 mảnh giấy trắng được cắt ra như thế, mất điện thường xuyên, “trường kỳ kháng chiến”.
Hồi tôi mới sang lần đầu tiên, bao giờ cũng có lệ mời anh em đi uống bai – gọi là nhập trạch. Hôm đó thấy mỗi người cầm một cái đèn pin. Tôi nói: ta đến khách sạn cơ mà. Y như rằng đèn pin có tác dụng. Ngồi một lúc thì mất điện, phải bật đèn pin và gọi nhân viên đến châm nến.
Khi đoàn của anh Thứ trưởng Bộ Văn hóa về, qua Bắc Kinh gặp tôi. Anh nói: Ai đời ở khách sạn 5 sao mà mấy ngày trời ăn toàn củ cải, xào rồi luộc, nấu; nước không có; ra đường không có điện đóm gì, tối như bưng, thỉnh thoảng có người chạy vụt qua. Tôi có nói với anh Phúc: ở Thủ đô có chỗ vẫn có điện. Ở ngã tư nào có ảnh của ông Kim đứng, ở dưới chân có một cái đèn hắt lên. Ở chỗ ấy thì có điện, chỉ chiếu lên người ông thôi, còn chung quanh tối bưng. Điện đấy không phải để thắp sáng cho nhân dân, mà là để “tra tấn” ông Kim Nhật Thành, vì riêng mặt ông ấy sáng, nên muỗi và châu chấu bay đến bao vây đậu vào hoặc lao vào mặt ông ấy. Anh Phúc có nói với tôi: khi nào có đoàn sang, anh báo tin cho tôi để tôi gửi cho các anh mấy cân tôm khô, chứ sống thế này thì khổ quá.
Vấn đề dân trí cũng rất thấp. Họ không biết được Việt Nam đã giải phóng đâu. Năm 1989 có Đại hội Thanh niên sinh viên thế giới lần thứ 13 (Festival) tổ chức tại Bình Nhưỡng. Đoàn Việt Nam do anh Hà Quang Dự làm trưởng đoàn. Anh Hà Quang Dự có đến chào Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn của Bắc Triều Tiên. Ông này chúc đồng chí Hà Quang Dự: “Chúc Việt Nam mau chóng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược để giải phóng Tổ quốc”. Đồng chí Hà Quang Dự cho rằng phiên dịch sai. Đồng chí phiên dịch nói: “Tôi đã chinh chiến ở đây mười mấy năm rồi, không dịch sai được đâu”. Đồng chí Dự phải nói lại: “Chúng tôi đã thống nhất đất nước từ năm 1975, đến nay đã gần 20 năm rồi”. Đồng chí Bí thư thứ nhất TW Đoàn Triều Tiên vỗ vai đồng chí Dự và nói: “Chúng ta là những người chiến sĩ cộng sản, không nên giấu nhau, không nên nói dối”. Các đồng chí luôn luôn tin tưởng ở chúng tôi bao giờ cũng chung một chiến hào, sát cánh với các đồng chí đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Qua đó ta thấy dân trí ở đây rất thấp. Người ta ví chế độ XHCN của Bắc Triều Tiên như một cái hộp đen, trong đó có rất nhiều cái bí ẩn; không ai được phép xem. Cho nên Bắc Triều Tiên rất sợ mở cửa, cải cách. Nếu mở cửa cải cách thì hộp đen dần dần hé mở thì các bí mật trong đó sẽ lộ ra hết, sẽ thành chuyện tày trời. Vì sao vậy?
Năm 1996, ông Bí thư Trung ương Đảng Bắc Triều Tiên đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Bắc Triều Tiên sang dự Đại hội lần thứ VIII Đảng ta (1996). Đến 1997 thì ông ấy đào tẩu sang Hàn Quốc. Ông ta là một trí thức lớn, hiểu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Kim Nhật Thành. Ông là cha đẻ ra tư tưởng chủ thể Kim Nhật Thành. Ông ấy lại bỏ đất nước ra đi. Ông cho rằng: Tôi phải ra đi để nói cho mọi người trên thế giới rằng: cái chế độ này không thể tồn tại, phải tìm ra một cách đi khác cho đất nước này, xã hội này. Chế độ của Bắc Triều Tiên là một chế độ rất hà khắc. Nếu những bí mật của chế độ Bắc Triều Tiên được hé mở ra, thì người ta sẽ thấy nó tàn ác và vô nhân đạo hơn cả chế độ Pôn Pốt ở Campuchia.
Các nhà tù, khu biệt giam ở biên giới được mở rộng nhiều. Trước đây chỉ có ở 2, 3 tỉnh. Sau này phát triển ra mấy chục cái trại ở nhiều tỉnh. Các trại này là một khu rộng lớn, trong đó đầy người như khu biệt xứ ở Sibêri ngày xưa ở Liên Xô.
Thí dụ: Có một ông đang làm Thủ tướng. Bẵng đi một thời gian không thấy tên trên báo chí. Sau đã thấy ông ấy đang ở trên biên giới làm giám đốc lâm trường khai thác gỗ ở biên giới. Cái lệ sùng bái lãnh tụ trở thành một cái bắt buộc để sống. Cho nên ai cũng phải học trước tác, ai cũng phải sùng bái. Hỏi trẻ con về những danh nhân trên thế giới, ông Mác, ông Lênin đều không biết, chỉ biết mỗi ông Kim Nhật Thành thôi. Hỏi về trước tác, chương mấy, điều bao nhiêu nói về thiếu nhi thì các cháu đọc luôn, thuộc lòng.
Ở Bắc Triều Tiên bây giờ có việc mua được một cái đài hay một cái dàn điện tử về, thì Hải quan giữ, cắt hết các sóng ngắn, để khi bật lên chỉ nghe thấy tiếng Kim Nhật Thành nói thôi, không phải dò sóng gì cả. Ở bên đó chỉ có một đề tài là ca ngợi Kim Nhật Thành, khi bật Tivi lên là thấy hai cha con. Phim truyện thì cũng chỉ có một đề tài ca ngợi hai cha con Kim Nhật Thành, không có một đề tài nào khác. Thí dụ: Hai anh chị yêu nhau, nhưng khi đến lúc gay cấn nhất thì lại nghĩ đến ông Kim Nhật Thành. Gần đây nhất có một cô giành được giải nhất về Maratông quốc tế. Phóng viên có hỏi: Chị nghĩ như thế nào trong quá trình tập luyện để đạt được giải. Chị trả lời: “Tôi vừa chạy vừa nghĩ đến Tướng quân Kim Châng In nên đạt được thành tích như vậy”. Tất cả xã hội gần như phải bắt buộc theo một quy chuẩn, bắt buộc tư tưởng người ta phải suy nghĩ như vậy không được suy nghĩ gì khác, mà việc này đôi khi nó cũng có hiệu quả. Thí dụ như trên báo của Đảng đến ngày sinh của ông Kim Châng In là ngày 16 tháng 2 thì năm nào cũng có một bài nói về các hiện tượng kỳ thú, kỳ lạ của tự nhiên như tự dưng trời quang mây tạnh thì có một cầu vồng đôi, hay là tự dưng thấy có bông hoa lan nở hoa trái vụ, hay là tự dưng trên các cây ở hai bờ sông Đại Đồng lại có cò trắng bay về. Trên báo Đảng có những bài mang tính chất mê tín dị đoan, mỵ dân như vậy. Việc chi phí vào tệ sùng bái cá nhân này cũng lớn lắm. Theo lịch sử chính thống thì ông Kim Châng In sinh ở núi Bạch Đầu Sơn. Núi Bạch Đầu Sơn cách thủ đô hàng mấy trăm ki lô mét, đèo heo hút gió, không có người ở trên đó thế mà cũng mang pháo hoa lên trên ấy bắn để ca ngợi ông Kim Châng In.
Ngày sinh của ông Kim không phải là ngày 16 tháng 2 năm 1942 như lịch sử bây giờ, ông Kim sinh năm 1941 ở Viễn Đông – Nga. Hiện có rất nhiều tài liệu mà Hàn Quốc đã công bố. Ở ngay Đại sứ quán Hàn Quốc ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều tài liệu nói về lịch sử của Triều Tiên. Ngay cô dâu Việt Nam cũng nói: Ngày sinh của vị lãnh tụ của chúng tôi cũng bị hoán cải đi, bóp méo sự thật. Lãnh tụ sinh năm 1941 ở Liên Xô lại nói sinh năm 1942 ở núi Bạch Đầu Sơn như thế là không đúng. Qua đó ta thấy xã hội không theo một quy chuẩn nào cả, quy chuẩn đạo đức cũng không phải, quy luật phát triển của lịch sử nhân loại cũng không phải.
Cả thế giới người ta đang cách mạng xanh, cách mạng tin học, nhưng Bắc Triều Tiên cứ lục cục sản xuất tên lửa để đi đánh nhau. Nhân dân đều biết nhưng không dám phản đối, vì mới nho nhoe thì đã bị túm rồi. Thủ đô Bình Nhưỡng hiện nay như một ốc đảo. Các tỉnh xung quanh Thủ đô thì rất khổ, rất nghèo, đói rách triền miên. Riêng Thủ đô vẫn rất sạch sẽ và cung cấp cho nhân dân vẫn tương đối đầy đủ, khoảng 400 gram lương thực trong một ngày, còn các chỗ khác chỉ khoảng 250 đến 300 gram, tùy từng vùng. Ở Thủ đô chỉ có gạo thôi, còn thức ăn không có mấy. Thực hiện chế độ bao cấp toàn bộ, tất cả quần áo của cán bộ công nhân viên ở trong thành phố do Nhà nước cấp phát. Ở trường học cấp phát đồng phục. Nhân dân được cấp phát theo chế độ cán bộ này, cán bộ kia. Cho nên nhân dân ăn mặc tươm tất, không có quần áo rách. Thủ đô là ốc đảo vì xung quanh các cửa ô của thủ đô có các quân đoàn quân đội đóng, có trạm gác. Ai ra vào đều bị khám xét rất kỹ, không có lệnh không được vào, không được ra. Có những người ở tỉnh ngoài làm việc ở Thủ đô cũng không được về thăm gia đình, quê hương. Ra khỏi thành phố là phải có giấy phép rất đặc biệt. Vào thành phố phải là những đợt được các tổ chức đoàn thể của Nhà nước cử đi họp, học tập mới được về, không có chuyện vào thăm hay vào chơi trong thành phố.
Tôi xin kể lại chuyện chị người Bắc Triều Tiên đã lấy chồng Việt Nam vừa qua. Chồng chị là anh Cảnh, hiện là huấn luyện viên đội môtô – xe đạp của Sở TDTT Hà Nội – Năm1967, anh được cử sang học ở Triều Tiên. Năm 1968-1969 anh đi thực tập ở một nhà máy, anh yêu chị công nhân Triều Tiên. Vì lúc đó quy định của Nhà nước ta là đi học không được phép yêu đương người nước ngoài. Song hai bên vẫn cứ hẹn hò, chờ đợi cho đến bây giờ. Khi có những đoàn đại biểu cấp cao đi thăm Triều Tiên thì anh lại gửi đơn cho Chủ tịch nước hoặc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đề nghị tác động với Triều Tiên để được lấy nhau.
Năm 2001, Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm Bắc Triều Tiên, anh Cảnh lại gửi thư nhờ Chủ tịch nước tác động với Chính phủ Bắc Triều Tiên. Tháng 5 năm 2001 đặt vấn đề. Tháng 8 năm 2001 Quốc hội Triều Tiên họp đã thông qua cho phép chị lấy anh Cảnh. Nhưng vẫn giữ quốc tịch Triều Tiên. Chị sinh năm 1948 – anh Cảnh sinh năm 1949. Anh Cảnh có bố công tác ở Bộ Ngoại giao, anh là con một. Đây là thắng lợi về mặt chế độ. Hôm nhận được lệnh đi, Công an mang một xe tải đến đón chị (bên đó không có xe con), trên đó có một ghế băng. Chị nói chị không đi, dù có chết cũng không đi. Vì chị nghĩ gia đình chị có mấy tội: một là ông bố định bỏ đi miền Nam từ năm 1960, tức là tội bất trung với Đảng, là một tội nặng nhất; hai là bản thân chị lại yêu một người nước ngoài, tức là không trung thành với lãnh tụ. Với những tội đó chắc là bị đưa đi xét xử, do vậy chị nhất quyết không đi. Khi công an nói đó là lệnh của Lãnh tụ, chị phải đi. Khi xe đến biên giới của Thủ đô thì bị ách lại. Sau đó phải điện cho Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao cho xe con ra đón, đưa chị vào một khách sạn, lúc đó chị mới tin là còn sống. Sau đó họ tổ chức lễ cưới cho chị ở Triều Tiên, chụp ảnh để lại cho gia đình. Khi sang đây chị kể lại chuyện mẹ chị bị chết đói cách đây mấy năm vì thương con không có gì ăn nên đã nhường lại cho con ăn. Những nơi mà ngày xưa các anh ấy đến học tập, thực tập thì bây giờ không còn gì nữa, chỉ còn lại là đồi trọc, vì không có gì để đun, nên mọi người đến đó chặt hết. Nhà máy phân đạm mà ngày xưa anh Cảnh đến thực tập và chúng tôi yêu nhau, do không có điện nên đã tháo dỡ hết phụ tùng máy móc để cho vào lò đúc thép. Bây giờ ở đó rất buồn tẻ, con người thì bạc nhược. Nếu so sánh với miền Nam Triều Tiên vào năm 1953, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc thì miền Bắc Triều Tiên có nhiều ưu thế hơn vì miền Bắc có nhiều khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên nhiều, các ngành khai thác đó Nhật bóc lột vơ vét đều tập trung ở miền Bắc như thép, than. Khi Nhật thua rút đi, miền Bắc tiếp thu được. Trong khi đó ở miền Nam thì không có gì. Miền Nam chủ yếu là đồng bằng, nông nghiệp là chính. Nếu tính thu nhập đầu người ở Hàn Quốc năm 1962 mới chỉ có 62 USD/đầu người. Đến năm 1996 thì tổng thu nhập bình quân đầu người đã lên đến 11.000 USD/ người, đứng thứ 11 thế giới. Đến 1997 bị khủng hoảng tài chính nên tụt xuống một chút. Mấy năm sau lại hồi phục được, bây giờ được đánh giá đứng thứ 12 thế giới. Qua đó ta thấy được đường lối chỉ khác nhau một chút kết quả thu được đã tất khác nhau. Hàn Quốc thực hiện đường lối dựa vào ô quân sự của Mỹ, cho Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên khoảng 37.000 quân, gần 100 căn cứ để rảnh tay đi vào sản xuất kinh tế, buôn bán, sản xuất công nghiệp. Trong khi đó thì Bắc Triều Tiên tập trung vào công nghiệp quốc phòng rất tốn kém, không còn đủ tiềm lực để nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Trong khoảng 14 năm (1962-1975), dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Pắc Chung Hy, Hàn Quốc đã khôi phục đất nước xong, sau đó tiếp tục phát triển rất nhanh đã trở thành một con rồng ở khu vực này. Tổng sản phẩm quốc dân đạt 400, 500 tỷ đô la, thu nhập đầu người vượt qua ngưỡng của 10.000 USD/người (11.400 USD).
Con đường phát triển định hướng được đúng thì đi càng nhanh, đất nước càng phát triển được. Nếu định hướng sai, đi càng nhanh càng chết. Ta hình dung Nam- Bắc Triều Tiên như cái kéo, càng đi càng xa nhau, riêng nói về kinh tế chứ chưa nói về các chế độ khác. Khoảng cách chênh lệch giữa hai miền càng ngày càng xa nhau. Mấy năm gần đây Bắc Triều Tiên toàn phát triển trên con số không. Từ 1994-1998 có năm bị âm đến 3,7%. Còn bình thường cứ âm từ 2% hoặc 3%. Trong khi đó mặc dù Nam Triều Tiên bị mắc vào khủng hoảng tài chính năm 1997, nhưng đã bứt lên rất mạnh. Tinh thần dân tộc rất cao. Riêng về kinh tế khi đất nước lâm nguy, người dân sẵn sàng tập trung toàn lực mang vàng, bạc góp cho Nhà nước để cùng thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế.
Ngược lại ở miền Bắc, do đường lối kinh tế xác định không được chính xác, càng ngày càng lún sâu vào khó khăn. Như các đồng chí đã biết mạnh vì gạo bạo vì tiền, khi đã nghèo thì hèn, khi đã không phát triển thì cảm thấy xấu hổ, không dám nói với ai. Tôi lấy ví dụ: Ngoại giao hay dự các buổi gặp mặt, tiệc tùng. Đại sứ hoặc cán bộ ngoại giao của Hàn Quốc gặp mọi người tay bắt mặt mừng, gặp gỡ trao đổi với Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Nông nghiệp, Bộ Giáo dục, Bộ Văn hóa… Nhưng với Bắc Triều Tiên chỉ đứng một xó, không dám nói chuyện với ai và cũng không có chuyện gì để nói. Gặp cán bộ ngoại giao chúng tôi, là những người chí thân, nhưng cũng không biết nói chuyện gì và cũng không có đề tài gì để nói cả.
Tôi đã kể một số sự kiện vụn vặt để các anh hình dung. Tôi cũng không áp đặt bảo đây nó là cái gì, mà để các anh tự đặt cho nó một cái tên.
Đảng của bạn có tên chính thức là Đảng Lao động Triều Tiên được thành lập từ ngày 10 tháng 10 năm 1945 do ông Kim Nhật Thành tập họp một số lực lượng chống Nhật. Quá trình thành lập Đảng cũng nan giải lắm, đánh nhau ghê gớm. Khi nói về lãnh tụ Đảng này, rất nhiều báo chí phương Tây đăng ảnh Kim Nhật Thành. Để thành lập được Đảng, Kim Nhật Thành đã phải trừ khử không biết bao nhiêu là bạn thân, chiến hữu mới lên được chức, thành lập được Đảng. Chính vì thế mà có nhu cầu đặc biệt là phải sùng bái cá nhân. Tại sao phải sùng bái vì cái gì mà người ta phải bắt người khác ca ngợi thì không phải cái ấy nó tốt, nó đẹp, mà là nó yếu. Do đó phải phát động cả dân, huy động không biết bao nhiêu tiền bạc, của cải vật chất, tinh thần, thời gian, sức lực của cả dân tộc. Ở Bắc Triều Tiên khi cần huy động một lực lượng quần chúng độ một triệu người thì chỉ cần một tiếng đồng hồ đã đứng suốt dọc đường vẫy cờ, mặc áo dài đẹp từ sân bay về đến Nhà khách chính phủ để đón một vị khách nào đó của nước ngoài. Qua đó thấy được một chế độ rất bao cấp và do nhu cầu chính trị nên nó phải lên gân cốt để tạo cho mình một thế vững mạnh.
Riêng về đường lối cách mạng của Đảng Lao động Triều Tiên có rất nhiều cách tranh luận. Về lịch sử, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô ép được quân Nhật rút khỏi Triều Tiên và giải phóng được Triều Tiên. Phía Nam, Mỹ vào giải phóng quân Nhật, phía Bắc Liên Xô vào giải giáp. Theo hiệp định Giơnevơ ký năm 1945, đến năm 1947 thì Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đến năm 1948 không thống nhất được, nên mỗi bên thành lập một Nhà nước riêng của mình. Miền Bắc do Kim Nhật Thành đứng ra thành lập nhà nước. Trong quá trình hoạch định ra đường lối phát triển cách mạng của Đảng, cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, quá trình xây dựng CNXH cũng có rất nhiều khó khăn. Sau đó quyết định khởi sự cuộc chiến tranh, gọi là Nam tiến. Vấn đề này còn rất nhiều bàn cãi. Có người nói Bắc Triều Tiên tấn công vào miền Nam gây ra cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1952-1953; có người thì nói là do Mỹ và Nam Triều Tiên Bắc tiến. Gần đây, nhiều tư liệu được tiết lộ ra là phía Bắc tấn công phía Nam trước. Có nhiều lập luận để chứng minh, tài liệu bí mật ở Mátscơva tiết lộ bằng giấy tờ chứng minh lúc đó Bắc Triều Tiên đã xin phép Liên Xô và bàn với Trung Quốc, sau đó tấn công. Cũng có người chỉ qua suy luận cũng đoán được rằng Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc chiến tranh nổ ra. Ba ngày sau, quân của Kim Nhật Thành đã ào ạt tiến vào giải phóng hơn một nửa Nam Triều Tiên. Sau 4, 5 ngày chỉ còn tỉnh Bu San, là tỉnh bé tí ti ở phía Tây Nam. Điều đó chứng tỏ phải có sự chuẩn bị từ trước. Mỹ đứng ra cáng đáng cho Nam Triều Tiên, Mỹ đề nghị Hộ đồng bảo an Liên hợp quốc họp. Mỹ xin được quân của Liên hợp quốc. Quân của Liên hợp quốc đã giúp Nam Triều Tiên để chống lại Bắc Triều Tiên, thì phải có lý do gì đó. Qua 2 ví dụ đó, người ít có điều kiện tiếp xúc với tài liệu cũng có thể suy luận được rằng miền Bắc tấn công miền Nam.
Thế của Nam Triều Tiên lúc đó cũng giống như thế của Đài Loan với Trung Quốc. Họ chưa có tham vọng quay trở lại để giải phóng cả đất nước.
Đường lối giải phóng Nam Triều Tiên của Bắc Triều Tiên không được suôn sẻ. Khi quân của Liên hợp quốc tấn công trở ra, toàn bộ quân miền Bắc bắt buộc phải hậu thoát lui về phía Bắc, tận Ap-Lục giáp với Trung Quốc. Sau đó tràn trở xuống và giữ đúng vĩ tuyến 38 như hồi đầu chiến tranh, chết rất nhiều quân, nhiều tướng tài.
Đường lối đấu tranh thống nhất của Đảng có rất nhiều nan giải, vì khi rút khỏi miền Nam thì đã rút toàn bộ quân đội và những cơ sở cách mạng vốn đã có ở miền Nam. Cuối cùng ở miền Nam là khu vực rất trống, không còn một cơ sở hạt giống cách mạng nào, không giống như cuộc cách mạng giải phóng miền Nam của Việt Nam. Cách mạng giải phóng miền Nam của Việt Nam đã tác động rất nhiều vào đường lối cách mạng của Đảng Lao động Triều Tiên. Nhiều người thấy rằng việc đánh tràn vào Nam Triều Tiên năm 1950 là rất khó khăn mà phải theo kiểu Việt Nam, để cho nhân dân miền Nam tự phát động, miền Bắc ủng hộ, trong đánh ra ngoài đánh vào mới giành thắng lợi. Chính vì thế mà đã gây ra các cuộc tranh cãi và thanh trừng nội bộ Đảng rất gay gắt. Bao nhiêu người đã từng có tư tưởng mới và đã sang Việt Nam để học tập về đều bị thanh trừng hết, có đợt thanh trừng 6, 7 cán bộ cao cấp của quân đội, của Đảng. Cho nên trong nội bộ Đảng có rất nhiều rạn nứt trong việc đấu tranh thống nhất nước nhà thời gian đầu.
Về đường lối xây dựng kinh tế, cân đối giữa phát triển kinh tế với phát triển quốc phòng trong Đảng cũng rất nhiều tranh cãi và phe của Kim Nhật Thành vẫn là phe thắng. Ông Kim đã gạt bỏ những người có tư tưởng cho là hữu khuynh, không nhìn rõ kẻ thù, ảo tưởng về hòa bình. Đảng kiên quyết phát triển công nghiệp nặng, sau đó mới đến phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, do đó rất tốn kém tiền của, vì thế mà sự tin tưởng của nhân dân ở Đảng ngày càng giảm. Cũng chính vì đường lối phát triển không hợp lý, do vậy không thể thực hiện được ước mơ của Chủ tịch Kim Nhật Thành là “Toàn dân được ăn cơm trắng và chan canh thịt” cho đến tận bây giờ. Về mặt tổ chức của Đảng cũng không hoàn chỉnh. Trước năm 1980 thì cứ 5 năm đại hội Đảng một lần. Nhưng từ Đại hội VI (10/1980) đến nay – 23 năm không họp Đại hội Đảng. Vậy các chi bộ sinh hoạt kiểu gì? Bầu bán ông Kim lên làm Tổng bí thư như thế nào? Đó là chuyện rất lạ.
Quá trình đưa ông Kim con lên làm lãnh tụ, sẽ nói sau. Riêng chuyện bầu ông làm Chủ tịch Đảng là cách làm rất độc đáo, không có Đảng nào làm như thế cả. Theo như báo Đảng cho biết, ông Kim sinh hoạt trong một chi bộ, được chi bộ suy tôn lên làm Tổng bí thư. Một người có ý kiến như vậy, chả ai dám phản đối cả. Ai mà phản đối là phải rút thẻ Đảng ngay. Cuối cùng cả chi bộ phải đồng ý. Chi bộ báo cáo lên Đảng ủy khu. Đảng ủy khu lại phổ biến cho các chi bộ khác. Cũng không có chi bộ nào dám phản đối cả, cứ theo vết dầu loang đó, cả nước suy tôn ông Kim Châng In làm Tổng bí thư của Đảng, không có một cái phiếu bầu, không có một cái biên bản, không cần có một Đại hội nào cả. Tự dưng ông làm Tổng bí thư, kỷ luật Đảng, tổ chức Đảng không chặt chẽ, theo một sự duy ý chí. Tất nhiên là ông ấy đã bật đèn xanh cho một tay nào đó làm. Bên trong thì không ai có thể hiểu được, nhưng hình thức bên ngoài thì là chuyện có thật, viết ở trên báo.
Quá trình lên nắm chính quyền của Kim con là do Kim Nhật Thành (Kim bố) chọn làm người thừa kế.
Về gia đình của Kim Nhật Thành: Bà vợ trước có 3 con trai. Kim Châng In là thứ 3. Ông rất lười học, chỉ thích chơi. Ông đã phá không biết bao nhiêu xe Mercedes của bố. Ông tập cả lái máy bay phản lực, tập cả phi ngựa. Nhìn ảnh ông thì ta thấy rất xấu tướng, bẩn tướng, tóc lúc nào cũng dựng ngược lên, môi thì thâm như có bệnh tim, da dẻ thì xỉn. Cho nên mỗi khi ông xuất hiện, các phóng viên ảnh thi nhau chụp và tập trung chụp vào cái môi để chứng minh là ông ta có bệnh tim. Chỉ được cái Kim con rất hăng hái với phụ nữ. Các cô diễn viên điện ảnh xinh xinh, đẹp đẹp là được tướng quân “chỉ đạo” tại chỗ, nhiều lắm. Tại sao tôi nói vậy, vì từ thời anh Nguyễn Văn Trọng, phó ban đối ngoại Trung ương Đảng làm Đại sứ ở bên ấy, có một cô con gái học ở Trường Đại học Kim Nhật Thành có mấy bạn gái người Triều Tiên rất xinh. Một cô đã nói với con gái anh Trọng: Làm con gái đẹp ở Triều Tiên nhục lắm. Tao đã bị tướng quân đưa lên “chỉ đạo” ở trên đó một đêm. Giờ tao chỉ muốn chết. Chỗ nào có bông hoa đẹp là ông ấy hái ngay.
Bà vợ hiện nay của ông Kim Châng In cũng là một diễn viên điện ảnh. Bà này đã có chồng, có con rồi. Ông Kim thích, thế là bà ta dứt khoát bỏ chồng để lấy ông Kim Châng In.
Nói rộng ra thì Kim Nhật Thành cũng thế. Bố nào con nấy. Trong nhà Kim Nhật Thành có cái bể tắm bát tiên, bể tắm lục tiên, tức là 6 hoặc 8 cô gái trẻ cùng tắm với ông ta. Về sau khi tuổi già, bác sỹ riêng của ông ta luôn luôn phải thay máu của ông ta bằng máu của các cô gái trẻ. Vì máu là cái quyết định sinh khí của con người, máu đó sẽ quyết định anh già hay trẻ, thay được máu trẻ vào thì khả năng sống và sức trẻ của con người sẽ rất tốt và mạnh mẽ hơn. Vì vậy cứ định kỳ là thay máu để kéo dài tuổi thọ. Thứ hai là tại sao lại bắt 8 cô, 6 cô cùng tắm với ông ta, vì để trao đổi iông giữa người già và người trẻ, sẽ tăng cường sức trẻ của người già. Kim con được chọn là người thừa kế duy nhất và đã được Kim bố chuẩn bị rất chu đáo. Khi còn sống Kim bố đã tuyên bố: “Tôi sẽ chọn đồng chí Kim Châng In làm người thừa kế, vì tôi thấy đồng chí Kim Châng In có rất nhiều phẩm chất và năng lực công tác, đạo đức cách mạng, có nhiều khả năng thay thế tôi làm việc, cho nên tôi tin rằng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ủng hộ để đồng chí Kim Châng In làm việc”.
Vì vậy khi Kim Châng In lên là nghĩ ngay muốn giữ gìn được an ninh chính trị phải nắm được 3 lực lượng: một là quân đội để có sức mạnh trị vì đất nước; thứ hai là lực lượng an ninh để phát hiện được những chỗ hỏng hóc trong xã hội để chấn chỉnh, để dẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải nắm được lực lượng trẻ, đó là lực lượng thanh niên. Nhưng khi lên nắm quyền thì mạnh nhất là nắm được quân đội và một nửa thanh niên. Còn an ninh thì không nắm được. Ông ta nghĩ rằng cũng như các thời đại vua chúa khác, không có quân mạnh thì không trấn yên được bờ cõi, không dẹp được loạn trong nước. Vả lại quân đội là loại nước sông công lính, tuyển vào không phải trả lương, bắt đi lao dịch ở đâu là phải đi. Cho nên rất nhiều công trình lớn của Triều Tiên phần lớn đều do lực lượng quân đội làm, kể cả đập chắn nước lớn bên bờ biển Tây. Thời hạn nghĩa vụ của Bắc Triều Tiên hiện nay tăng từ 7 năm lên 14 năm. 14 năm thì coi như hết cả đời thanh xuân của họ.
Quá trình đưa Kim Châng In lên nắm quyền (1975) trong nội bộ Đảng đã có rất nhiều thắc mắc. Những năm đó số cán bộ cốt cán của triều đình còn rất nhiều, về tuổi đời, năng lực làm việc, công lao với cách mạng rất lớn. Thế mà lại đưa một anh còn trẻ măng mới học trong trường – khoa kinh tế – để thay thế, không khỏi có nhiều người phản đối. Vì vậy muốn duy trì được ý định của mình, Kim Nhật Thành phải thay đổi rất nhiều cán bộ để duy trì chế độ cha truyền con nối.
Khi ông Kim Nhật Thành chết đột ngột ngày 8 tháng 7 năm 1994, người ta tưởng đây là cơ hội thuận lợi để ông Kim con lên nắm tất cả các chức quyền trong Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ. Nhưng đến tháng 5 năm 1998, tức là 4 năm sau Quốc hội mới họp, lúc đó ông Kim Châng In mới lên nắm các chức vụ Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Hội đồng quân sự Nhà nước. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998 thì Hội đồng quân sự Nhà nước thâu tóm toàn bộ quyền hành kể cả về Đảng lẫn chính quyền trong đất nước. Người làm Chủ tịch Hội đồng quân sự Nhà nước thâu tóm toàn bộ các quyền, kể cả quyền phát động chiến tranh. Như vậy ông Kim con đã giữ hai chức vụ to nhất của đất nước. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998, toàn Đảng, toàn dân Triều Tiên suy tôn đồng chí Kim Nhật Thành làm Chủ tịch nước vĩnh viễn của Nhà nước Triều Tiên, không có ghế Phó chủ tịch nước. Kim con cũng muốn giữ chức vụ chủ tịch nước nhưng trong quá trình đấu đá nhau không thể ngồi được, nên quy cho ông Kim bố làm chủ tịch vĩnh viễn, mặc dù ông ta đã chết, đang nằm dưới đất. Như vậy không ai nhảy được vào chiếc ghế này. Như vậy, tất cả các quyền hành đều nằm trong tay Kim con. Cho nên có chuyện vui khi ông Đại sứ Bắc Triều Tiên sang nhậm chức tại nước ta năm 1997, trình quốc thư: Trong thư trình thì người ký lại là ông Kim Nhật Thành, mặc dù ông đã chết được 3 năm rồi. Bộ Ngoại giao ta không chấp nhận, đề nghị bạn về báo cáo, sau đó thông tin cho Việt Nam biết. Sau đó Bộ Ngoại giao bạn đề nghị ta chấp nhận vì nước bạn lúc đó chưa có chủ tịch nước chính thức nên cứ tạm thời để Kim Nhật Thành ký. Bạn cho biết một số nước khác đã chấp nhận như vậy. Cuối cùng Bộ Ngoại giao xin ý kiến Trung ương. Trung ương chấp nhận mặc dù người đã chết vẫn ký văn bản cho người đang sống. Qua đó ta thấy trong Đảng bạn cũng đấu tranh quyền lực ghê gớm lắm.
Khi Kim Châng In tốt nghiệp cấp III, ông có sang Liên Xô vào Trường Đại học Lômônôxốp tham quan. Sau đó ông ta về nước và nói học ở trong nước cũng tốt. Câu nói “học ở trong nước cũng tốt” của ông đã trở thành phương châm giáo dục của Bắc Triều Tiên. Từ đó trở đi không gửi lưu học sinh ra nước ngoài. Mãi gần đây có một số học sinh do các tổ chức quốc tế mời đi tham quan, hoặc đi du lịch 1, 2 tháng rồi về, nhưng thường không được trọng dụng. Phương châm giáo dục của Kim Châng In đưa ra là phải đào tạo trở thành những trung thần chỉ biết có trung thành với một lãnh tụ là Kim Châng In mà thôi.
Vấn đề tự hào dân tộc thì rất quá đáng. Lãnh tụ Kim Nhật Thành đã nói chỉ có đúng, chứ không bao giờ không đúng vì Hiến pháp năm 1998 sửa đổi đã ghi rõ đường lối kinh tế là theo đường lối Thanh Sơn Lý (Làng Thanh Sơn). Đường lối Thanh Sơn Lý do ông Kim Nhật Thành đề ra năm 1959. Đường lối này là Đảng lãnh đạo kinh tế, tất cả đảng viên tập trung vào thực hiện nghị quyết của Đảng về kinh tế. Bí thư chi bộ của làng đứng ra phân công lao động: Tổ này đi bới cỏ, tổ kia đi bắt sâu. 8 giờ ra đồng, đến 10 giờ giải lao 15 phút hát mấy câu, cờ lá chuối cắm khắp cả cánh đồng, đánh trống ầm ĩ. 11 giờ nghỉ về ăn cơm. Như vậy thì làm sao nông nghiệp phát triển được.
Thí dụ thứ 2: Năm 1999, anh Trần Văn Đăng sang thăm Bắc Triều Tiên, đi thăm rất nhiều nơi, có những tòa nhà diện tích mặt bằng 2000 m2 , cao 5, 6 tầng. Hỏi ai thiết kế. Họ nói chúng tôi thiết kế, xây dựng trong một năm. Đến đâu hỏi đều được bạn trả lời trong một năm. Đến tàu điện ngầm, anh Đăng hỏi: Ga tàu điện ngầm xây trong bao lâu. Họ lại nói trong một năm. Ở nhà máy sản xuất xi măng, máy móc đều nhập của Hà Lan, đều dán tem sản xuất tại Hăm Buốc (Tây Đức) và Hà Lan. Khi phóng viên hỏi họ nói chúng tôi tự sản xuất lấy. Trong khi đó các chuyên gia Hà Lan đang cầm máy bộ đàm để chỉ đạo sản xuất, lắp ráp. Họ vẫn bảo tất cả kỹ thuật của Triều Tiên. Chúng tôi thiết kế, thi công, lắp đặt, vận hành. Tất cả là theo đường lối chỉ đạo của Kim Châng In.
Ông Kim Châng In cũng rất thích có tiếng tăm. Năm 1989 có Đại hội Thanh niên thế giới họp tại Bình Nhưỡng, ông chỉ đạo xây khách sạn Liễu Cảnh 105 tầng, hình tháp có 3 chân chĩa ra như đuôi của cái tên. Xây được một năm thì móng đã bị nghiêng. Báo chí ngày nào cũng đăng tin: Hôm nay xây được một tầng, hôm nay xây được hai tầng. Sau đó bỗng thấy báo chí im hẳn. Hóa ra móng nghiêng, không làm nữa. Đến bây giờ xi măng đã mọc rêu, trên đỉnh vẫn còn có cái cần cẩu để trên đó. Rất nhiều nước xin vào gia cố, nhưng họ không cho. Lãnh tụ đã làm, đã nói là đúng, có sai cũng để đấy thôi.
Hiện nay xã hội Triều Tiên nói Đảng là gì: Đảng là lãnh tụ, lãnh tụ là Đảng. Nhìn vào lãnh tụ là biết Đảng ra sao.
Về giáo dục của bạn là hình thức chủ nghĩa, hời hợt. Bạn đã biết trên thế giới đang phát triển về mọi mặt, nên bạn cũng rất lo, đang tìm cách giải quyết, không thể để mãi tình trạng hiện tại, sợ sẽ đảo chính. Tin đảo chính thì nhiều, nhưng chúng tôi cũng không nắm được chính thức. Nhưng tự dưng có vụ nổ, họ nói đó là đảo chính.
Bắc Triều Tiên cũng đang tìm cách để thoát ra khỏi khó khăn. Kim Châng In khẳng định: Trên thế giới này chỉ có một siêu cường, đó là Mỹ. Khi mà khai thông được với Mỹ thì khâu trung tâm sẽ khai thông được tất cả các quan hệ khác. Đó là tư tưởng thông suốt chỉ đạo của Kim Châng In. Vì không mặc cả được với Mỹ và Hàn Quốc về kinh tế, phải mặc cả với Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Năm 1985 đã xây dựng phát triển vũ khí hạt nhân. Còn việc Bắc Triều Tiên đã có vũ khí hạt nhân chưa thì hiện tại chưa ai khẳng định được. Nhưng Mỹ cũng phải nể và Bắc Triều Tiên cũng đã kéo được Mỹ vào bàn hội đàm và ký được hiệp định khung năm 1994. Qua hiệp định, Mỹ yêu cầu Bắc Triều Tiên không sản xuất vũ khí hạt nhân nữa, Mỹ sẽ xây dựng cho Bắc Triều Tiên một nhà máy phát điện bằng năng lượng hạt nhân nguyên tử, trị giá năm 1994 khoảng 4,6 tỷ USD, tính trượt giá đến bây giờ phải non 10 tỷ USD.
Trên đà thắng đó, Bắc Triều Tiên tiếp tục dùng con bài hạt nhân để mặc cả với Mỹ với mục đích bắt Mỹ phải ngồi bàn trực tiếp với Bắc Triều Tiên như thiết lập quan hệ đối ngoại, viện trợ kinh tế cho Bắc Triều Tiên. Từ chuyện đó bắt buộc Nhật cũng phải thiết lập quan hệ ngoại giao, phải viện trợ cho Bắc Triều Tiên.
Bây giờ Mỹ và thế giới cứ phải quan tâm đến vũ khí hạt nhật của Bắc Triều Tiên, mặc dù không biết thực hư sẽ ra sao. Nhiều người cho rằng Bắc Triều Tiên nói vậy chứ làm gì có vũ khí hạt nhân vì tiềm lực kinh tế yếu, tổng sản phẩm quốc dân có 15 tỷ USD. Trong khi đó, Hàn Quốc có 500 tỷ USD. Nhưng mà ai cũng sợ vì tính khí của họ là tên khủng bố quốc tế rồi. Nhật và Hàn Quốc rất sợ vì họ có một cơ ngơi khang trang đẹp đẽ, rất cần có một không khí hòa bình ổn định để phát triển làm ăn kinh tế. Họ rất sợ chiến tranh. Cho nên nếu mà Mỹ làm căng với Bắc Triều Tiên thì Hàn Quốc và Nhật Bản lại phải lạy van Mỹ vì Mỹ đánh nhau với Bắc Triều Tiên thì chỉ thanh lý được một số vũ khí từ chiến tranh thế giới thứ hai đến giờ. Còn nếu chiến tranh nổ ra thì Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ bị thiệt hại trước tiên và rất lớn. Mỹ cũng rất muốn đánh Bắc Triều Tiên. Có 2 lần, đó là cuối năm 1994, Mỹ đã định dội bom nguyên tử xuống Bắc Triều Tiên. Thông tin này đã được kết luận. Tháng 12 năm ngoái, Mỹ cũng đã định đánh Bắc Triều Tiên một lần nữa, nhưng Hàn Quốc và Nhật Bản lại can.
Tại sao lại gọi Bắc Triều Tiên là khủng bố quốc tế vì ngay từ lâu đã có tư tưởng dùng bạo lực để ám sát, triệt lãnh đạo của Hàn Quốc. Năm 1988, Tổng thống Hàn Quốc đi thăm Rang-un (Miến Điện), đến thăm nghĩa trang Nhà nước. Bắc Triều Tiên đã cử 2 đặc công sang cài mấy quả mìn ở cổng nghĩa trang. Rất may xe của Tổng thống vừa đi qua thì mìn nổ, 4 xe tiếp theo chở các Bộ trưởng và tùy tùng thì chết. Xe của Tổng thống thì thoát. Sau đó an ninh Miến Điện cho lùng soát và bắt được 2 người Bắc Triều Tiên. Sau đó là vụ “quả bom nước 20 tỷ tấn” định dội vào Hàn Quốc. Vì khu vực núi Kim Cương Sơn do rất nhiều trái núi hợp thành hệ thống núi. Bắc Triều Tiên cho xây chắn núi nọ với núi kia thành ra một cái bể chứa 20 tỷ mét khối nước. Mỗi mét khối nước nặng 1 tấn. Người ta gọi là 20 tỷ tấn. Đập đó cách thủ đu Xê-un 100 km và cao hơn thủ đô Xê-un hơn 1000 mét. Nếu Bắc Triều Tiên cho đặt 1 tấn bộc phá ở dưới chân đập và cho nổ đồng thời thì 20 tỷ tấn nước này sẽ thổi thủ đô Xê-un bay sang biển Đông như ta lấy một thùng nước hắt một cái lá tre xuống cống. Cho nên thế giới gọi Bắc Triều Tiên là tên khủng bố quốc tế và phản đối kịch liệt. Thế giới đã giúp thành phố Xê-un xây một cái đập, gọi là đập Hòa Bình cong cong để chắn lượng nước từ bên kia tràn sang, sẽ tóe sang hai bên.
Sau đó lại có vụ nổ máy bay của hãng hàng không Koreairlines của Hàn Quốc năm 1988 làm chết mấy trăm người. Rồi là bắt cóc người Nhật về Bắc Triều Tiên. Rồi việc thanh trừng nội bộ rất nhiều. Cuối cùng Mỹ đã quy Bắc Triều Tiên vào danh sách nước ủng hộ khủng bố quốc tế.
Bắc Triều Tiên quan hệ với Việt Nam cũng có rất nhiều trắc trở. Bắc Triều Tiên rất cơ hội chủ nghĩa và vì quyền lợi dân tộc hẹp hòi, chẳng có vì quốc tế cộng sản hay vì cái gì hết. Thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, Bắc Triều Tiên cũng ủng hộ nhưng với tinh thần là để chia lửa với Hàn Quốc, để Mỹ tập trung quân đánh Nam Việt Nam, để cho Nam Triều Tiên rảnh tay đỡ chuyện tranh giành khu vực bán đảo Triều Tiên. Chính vì thế nhiều khi Việt Nam cần thì Bắc Triều Tiên không ủng hộ, lúc không cần thì lại dương cao ngọn cờ yêu cầu Việt Nam theo Bắc Triều Tiên lập ra Mặt trận châu Á chống Mỹ vào khoảng 1968-1970 là lúc cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam đang rất quyết liệt.
Khi Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, sáu tháng sau báo chí Bắc Triều Tiên vẫn không đưa tin thắng lợi vĩ đại của Việt Nam. Cả thế giới người ta hân hoan vui mừng, trống dong cờ mở để hoan hô Việt Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhưng ông bạn Bắc Triều Tiên vẫn cứ im lặng. Sau đó ta vận động, lúc đó báo chí mới đưa tin, nhân dân mới biết Việt Nam giải phóng rồi. Sau đó lại thôi luôn cho nên rất nhiều người về sau này không biết được Việt Nam đã giải phóng. Họ cho rằng các đồng chí Việt Nam không chịu chờ đợi để giải phóng Nam Triều Tiên đồng thời giải phóng Nam Việt Nam, như vậy là các đồng chí dồn hết khó khăn sang cho chúng tôi. Mỹ xong bên đó rồi sẽ quay sang đánh chúng tôi. Các đồng chí không có tinh thần quốc tế. Họ lập luận quái gở như vậy. Còn vấn đề vì lợi ích dân tộc hẹp hòi theo đuôi Trung Quốc trong vấn đề Campuchia chống Việt Nam thì rất lớn. Nhưng vì ta không bắt được tài liệu, không bắt được chuyên gia tại đấy, vì ta đánh Pôn Pốt theo kiểu xua chân, nếu đánh chụp, đánh bao vây thì chắc chắn bắt được nhiều chuyên gia của Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên thực ra cũng chẳng tốt gì với Việt Nam, nhưng lúc nào cũng có tư tưởng đòi nợ Việt Nam: trước kia, chúng tôi giúp các đồng chí trong chiến tranh chống Mỹ, bây giờ các đồng chí phải giúp chúng tôi. Các đồng chí không được quan hệ với Nam Triều Tiên. Nhưng do xu thế không thể đảo ngược được, các nước XHCN, Liên Xô, Trung Quốc đều đặt quan hệ với Nam Triều Tiên. Việt Nam cũng là nước XHCN cuối cùng đặt quan hệ với Nam Triều Tiên cho nên bạn đỡ hậm hực. Khi ta lập được quan hệ ngoại giao rồi thì lại khuyên ta chỉ đặt quan hệ ngoại giao, đừng đặt về quan hệ kinh tế, quan hệ với Đảng cầm quyền ở Hàn Quốc. Sau này, Tổng bí thư Đảng ta đi thăm Hàn Quốc, thiết lập quan hệ với Đảng cầm quyền của Hàn Quốc. Bạn cũng chẳng thể đảo ngược lại được, đành phải ngậm ngùi. Mặc dù vậy họ vẫn có những trắng trợn, thí dụ: viên đại sứ Bắc Triều Tiên hiện nay ở Việt Nam, khóa trước làm tham tán Sứ quán Triều Tiên ở Việt Nam, lúc đó là năm 1995, anh ta lên Bộ Ngoại giao khuyên chúng tôi: Các đồng chí đừng có tin Nam Triều Tiên kinh tế phát triển, họ không làm được ô tô, tivi…, mà họ mua của các nước khác về để tuyên truyền.
Trong khi đó, Việt Nam đã buôn bán với Hàn Quốc, các công ty của Hàn Quốc đã vào đầu tư ở Việt Nam và họ cũng biết chúng tôi đã từng công tác, học tập ở Hàn Quốc nhiều năm. Tóm lại, con người Bắc Triều Tiên là rất khó chịu, xã hội, lãnh đạo rất khó chịu, không hiểu nó là cái gì? Chúng tôi đã công tác ở Bắc Triều Tiên mấy chục năm, nhưng bây giờ nói Bắc Triều Tiên là cái gì thì rất khó.
Bắc Triều Tiên đưa ra tư tưởng chủ thể. Vậy tư tưởng chủ thể là gì? Đó là tư tưởng cho con người là chủ thể của cách mạng, cũng là chủ thể của vận mệnh của mình, của chính bản thân mình. Đó là nội dung của tư tưởng chủ thể. Nhưng mà việc thực hiện tư tưởng chủ thể thì lại thực hiện theo một ý đồ đằng sau những danh từ của tư tưởng chủ thể. Cho nên thế giới đánh giá tư tưởng chủ thể là loại tư tưởng đóng cửa, không tin vào bất cứ một ai, không tin vào bạn bè, đóng cửa chặt. Có người nước ngoài nói tư tưởng chủ thể là một loại tư tưởng phản động. Xã hội càng phát triển, càng văn minh lên thì tư tưởng chủ thể càng bộc lộ rõ tính phản động, kìm hãm sự phát triển. Nghe họ nói thì rất hay, nhưng làm thì rất dở. Thế giới sợ và ghét, ngại không muốn đến gần.
Tư liệu sưu tầm của Triệu Xuân
Một bài viết cũ trên Diplomat

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

Kỳ tích của thí sinh viết bài thi bằng chân


(Dân trí) - “Số phận đã lấy đi của em đôi bàn tay nhưng lại tặng cho em một đôi bàn chân kỳ diệu và cái đầu biết tư duy. Chỉ với chừng đó thôi em sẽ cố gắng để vững tiến bước trên đường đời...”, đó là lời tâm sự đầy chí khí của Nguyễn Minh Phú.
Sinh năm 1993 ở xóm 9, xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, là học sinh lớp 12A1 Trường THPT Trần Đình Phong, em Nguyễn Minh Phú được mệnh danh là Nguyễn Ngọc Ký thứ hai của Việt Nam. Phú sinh ra không có hai tay. Phú lớn lên từ trong khổ luyện nhờ người bố, mẹ và anh chị để trở thành một học sinh viết bằng chân thành thạo... Với Phú, phải học và học thật giỏi để chứng minh rằng những người có số phận không may cũng có thể làm nên kỳ tích. Con đường gian nan đến với tri thức của Phú như một câu chuyện cổ tích giữa thời hiện đại.
 
Qua khổ luyện, em Nguyễn Minh Phú đã có thể viết chữ bằng chân.
Bất hạnh đầu đời
Chiến tranh đã đi qua hơn 40 năm, nhưng bất hạnh do di chứng của chiến tranh vẫn còn để lại biết bao đau thương cho nhiều người. Và gia đình ông Nguyễn Quỳnh Lộc (SN 1954) và bà Nguyễn Thị Bình (SN 1956) đã phải chịu nỗi đau da cam khi lần lượt 4 đứa con chào đời thì 3 đứa mắc bệnh này.
Năm 1972, chàng thanh niên trai trẻ Nguyễn Quỳnh Lộc lên đường tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Đến năm 1975, anh nhận nhiệm vụ quốc tế cao cả tại chiến trường K. Năm 1985, anh trở về quê hương với nhiều thương tật trên mình. Năm 1987, anh lấy vợ chị Nguyễn Thị Bình. Năm 1988-1990 vợ chồng anh vui mừng khôn xiết khi sinh được hai người con kháu khỉnh (một trai, một gái) chào đời trong sự sung sướng của anh em, họ hàng và láng giềng.
Niềm vui chưa trọn vẹn thì anh phát hiện trong mình mang di chứng của chất độc da cam những năm tháng ở chiến trường đã ngấm vào thân thể. Lúc đầu anh cũng không dám tin điều đó là sự thật và vẫn nuôi hy vọng trong sự thấp thỏm, lo âu. Nhưng rồi hy vọng bao nhiêu thì thất vọng hiện lên trong anh bấy nhiêu khi đứa con thứ ba Nguyễn Minh Phú chào đời với thân hình dị dạng. Anh lo lắng và tuyệt vọng. Năm 1993, cậu bé Nguyễn Minh Phú chào đời chỉ nặng 1,5kg và oái oăm hơn cháu không có ... hai tay như bao đứa trẻ khác.
Anh nhìn con thân thể “thiếu thốn” mà lòng quặn thắt, trái tim như rỉ máu rồi tự hỏi: Mình sống có nên nỗi đâu mà ông trời lại nỡ bắt đứa con mang dị tật thế này? Biết cái khốn, cái khổ và thất vọng của gia đình anh, nhân viên y tế khuyên gia đình anh không nên để lại cháu bé trong hoàn cảnh như vậy. Anh tâm sự: “Ngày đưa vợ đến trạm y tế sinh, khi các bác sỹ đỡ đẻ phát hiện Phú bị dị tật (không có hai tay) và khuyên tôi bỏ cháu đi. Nhưng tôi đã gạt đi tất cả mọi lời đám tiếu vì dù cháu có sao đi nữa thì cũng là một phần thân thể, máu ruột của mình. Cháu không lành lặn nhưng cháu có quyền được sống...”. Nước mắt người cha lại trào ra khi anh nhớ lại rồi chợt nước mắt rơi.
Và từ đây cũng là giai đoạn anh chị bắt đầu bước vào một “cuộc chiến” mới không kém phần khốc liệt - cuộc chiến đói nghèo, bệnh tật của bản thân và của các con. Rồi thời gian trôi qua, hình như ông trời cũng đã thấu hiểu nỗi khổ của anh chị phải chịu đựng. Cậu bé Phú với hình hài không trọn vẹn ấy cứ lớn dần lên trong vòng tay yêu thương của bố mẹ, anh chị và bà con lối xóm...
Chuyện "cổ tích" viết từ đôi chân
Trời không cho Nguyễn Minh Phú đôi cánh tay nhưng cho em nghị lực và ý chí để rồi ngày hôm nay chiến thắng số phận và làm nên những điều kỳ tích.
Tâm sự với PV Dân trí, ông Nguyễn Quỳnh Lộc bảo: “Thời trẻ thơ của Phú đầy cơ hàn, sinh ra đã khuyết tật gia đình chạy đôn chạy đáo, làm bất cứ việc gì để mong sao cháu được bình an. Năm lên 4 tuổi nhìn những đứa trẻ hàng xóm bi ba, bi bô tập hát những bài hát trẻ thơ Phú đứng nhìn và đòi bố mẹ đưa đi học. Nhưng nghĩ đến số phận của con, tôi không dám đem cháu đến lớp, nhưng cứ hễ lúc nào vắng bóng bố mẹ là Phú lại đi đến nhà mẫu giáo xem các bạn cùng trang lứa học hát học múa. Những lúc thấy con đứng nhìn bọn trẻ hát trong trường mẫu giáo người làm cha, làm mẹ như chúng tôi chỉ biết nuốt nước mắt vào trong. Thương con mà không thể làm thế nào khác được”.
Biết con đam mê học hành, vượt qua tất cả, ông quyết chí đem trí óc của mình truyền thụ kiến thức, bày dạy cho Phú học ở nhà trước lúc đến lớp. Từ những cục than đen đến phấn trắng rồi mảnh viên gạch đỏ, ông dạy Phú kẹp giữa hai ngón chân để tập viết dưới sân, lúc trên thềm, có khi trong nhà... miễn là chỗ nào viết được là ông dạy cho con tập viết. Những lúc kẹp phấn, viên gạch hai ngón chân của Phú đã chảy máu, thậm chí lở loét, đau rát... Nhiều lúc đi làm về thấy bàn chân con rớm máu, bố mẹ Phú chị lại không cầm được lòng mình chỉ biết nhìn nhau mà khóc.
 
Được viết bằng chân, nhưng dòng chữ của Phú được viết nắn nót, tròn trĩnh, đẹp... khiến nhiều người khâm phục.
 
Mỏi mòn hơn 4 năm khổ luyện tập viết bằng chân rồi Phú cũng thành thạo. Năm lên 9 tuổi Phú bước vào lớp 1. Ngày đầu ở lớp, bạn bè trong lớp nhìn Phú  với con mắt không mấy thiện cảm. Nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn Phú đã lấy được tình cảm từ thầy cô, bạn bè... bằng nghị lực đầy phi thường những dòng chữ viết nắn nót, thẳng hàng, tròn trịa, những trang giấy được trình bày cẩn thận, sạch sẽ... khiến người lành lặn cũng không thể viết đẹp hơn chữ Phú viết bằng chân. Lúc này thầy cô bạn bè mới tin rằng chính đôi chân của Phú làm nên được một điều kỳ diệu ít người có thể làm được.
 
Vở sạch chữ đẹp lớp 12 của Phú hiện nay.
 
Người ta vẫn thường nói “giàu đôi con mắt, khó đôi bàn tay” nhưng với Phú thì khác. Sinh ra với hai cánh tay cụt ngủn đến tận bả vai nhưng với đôi bàn chân nhỏ bé của mình Phú đã viết nên một câu chuyện cổ tích. Đôi chân em với những ngón dài dài khẳng khiu, khéo léo nhưng ẩn chứa sức mạnh - sức mạnh từ khát vọng khẳng định bản thân của một chàng trai tật nguyền. Từ đánh răng, rửa mặt, ăn uống cho đến xâu kim, may vá quần áo, gõ bàn phím máy tính, nhắn tin trên điện thoại di động... đều được đôi bàn chân của Phú thao tác rất thành thục.
Chân trái “cầm” kim, chân phải “cầm” chỉ, với động tác cúi người, hai bàn chân tiến lại gần nhau, trong chốc lát sợi chỉ đã được xâu vào chiếc kim bé tẹo. Giữ chặt kim, kéo sợi chỉ cho cân, ghé miệng cắn đứt chỉ thừa, hai ngón phải vê vê đầu chỉ và gút lại rồi khâu những đường chỉ ngay hàng thẳng lối. Cũng hai ngón chân ấy xoay xoay cái nắp hộp kem đánh răng, lấy kem ra bàn chải, chân phải gác lên chân trái và đánh răng một cách thuần thục. “Mọi sinh hoạt cá nhân em đều có thể làm được, trừ việc mặc quần áo thôi. Không thể dùng chân mà mặc quần được, mẹ vẫn phải làm giúp đấy. Em phải chuốt móng chân thế này để có thể “nhặt” và giữ được những vật nhỏ nhất” - Phú tâm sự.
Nhưng đấy chưa phải là tất cả nhưng gì chàng trai tật nguyền này làm được. Ý chí, nghị lực và cả sự khổ luyện đã giúp Phú trở thành một học sinh giỏi trong nhiều năm liền. Nhìn vào bảng thành tích của Phú, không ít người phải nể phục. Năm 2005 Phú là đại biểu Cháu ngoan Bác Hồ tỉnh Nghệ An, đại biểu Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc, đại biểu Hiệp sỹ công nghệ thông tin, 1 trong 10 gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quốc. Năm 2006, Phú được trao giải thưởng “Mãi mãi tuổi 20”, được bầu vào đoàn chủ tịch Đại hội Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Nghệ An.
 

Phú (hàng đầu, ngoài cùng bên phải) chụp ảnh lưu niệm cùng hiệp sỹ công nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng trong một lần giao lưu.
 
Trong suốt những năm học tiểu học, Nguyễn Minh Phú liên tục là học sinh giỏi cấp trường, được tín nhiệm bầu làm lớp trưởng, sao đỏ và cán bộ Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trường. Năm 2002 (khi đang học lớp 3), Phú đạt giải đặc biệt cuộc thi “Vở sạch chữ đẹp’ cấp huyện. Phú là học sinh giỏi bộ môn tiếng Anh cấp huyện nhiều năm liền và trong năm học 2010-2011 vừa qua em được chọn vào đội tuyển dự thi Học sinh giỏi tiếng Anh cấp tỉnh.
 
Trong căn nhà nhỏ, treo la liệt những tấm giấy khen, bằng khen của Ban giám hiệu nhà trường, của các cấp, ngành. “Em vinh dự được Thủ tướng Phan Văn Khải tặng Bằng khen Thiếu nhi vượt khó học giỏi, được Phó Thủ tưởng Phạm Gia Khiêm, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và Chủ tịch UBND tỉnh Phan Đình Trạc tặng Bằng khen. Đó là nguồn động viên tinh thần rất lớn đối với em”, Phú cho biết. Cảm phục tài năng và ý chí của Phú, Làng Hòa Bình (Bệnh viện Từ Dũ TPHCM) đã trao tặng em học bổng trong suốt những năm học qua.
 
Khi được hỏi về ước mơ, Phú cười khẽ và bảo: Sau này em muốn trở thành một phiên dịch viên. Để cụ thể ước mơ của mình, Phú dồn tâm huyết vào bộ môn tiếng Anh và gặt hái được không ít thành công. “Nhưng cũng có thể em sẽ theo học ngành công nghệ thông tin. Ngành này phù hợp với thể trạng của em hơn”, Phú cho biết thêm.
 
Mong rằng những ước mơ của em sẽ sớm trở thành hiện thực. Với những thành tích trong học tập và ý chí vươn lên của mình đôi chân của cậu bé tật nguyền sẽ làm nên những kỳ tích mới...
 
Một số hình ảnh về "kỳ tích” của Nguyễn Minh Phú xin được giới thiệu cùng bạn đọc:
 
Phú thuở nhỏ
 
Lớn lên và hai cánh tay bị cụt do di chứng chất độc da cam từ người bố những năm tháng chiến tranh.
 
Nhưng Phú vẫn luôn nở nụ cười tươi mặc dù số phận mình là "hẩm hiu"... Để rồi em vượt lên tất cả, có những thành tích đáng nể mà các bạn cùng trang lứa không thể theo kịp. 
 
Nhờ khổ luyện đôi chân của Phú có thể làm được nhiều việc, từ nghe điện thoại...
 
...đến xâu kim
 
 
với những đường may thành thạo và cực kỳ điêu luyện
 
"Phong cách" uống nước...
 
... cho đến ăn uống đều được Phú dùng chân tuyệt vời.
 
Phú lấy kem đánh răng...
 
... dùng hai ngón chân vặn nhẹ...
 
... lấy thuốc ra bàn chải...
 
... đánh răng
 
Sử dụng máy tính
 
Hoặc nhắn tin điện thoại
 

Một bức tranh về từ chân của Phú
 
Những thành tích đáng nể, suốt 12 năm Phú luôn đạt học sinh giỏi, khá và đạt giải đặc biệt kỳ thi vở sạch chữ đẹp thời cấp 1, được chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An tặng bằng khen.
  
 
 Nguyễn Duy - Hoàng Lam

Đến tuổi này & Bài ca mùa thu


Hồng Thanh Quang

Đến tuổi này giở báo
Đọc tin buồn đầu tiên
Lỡ đâu đồng đội cũ
Lỡ đâu lại người quen

Đến tuổi này thấy ngại
Những quan hệ vàng son
Lắng những lời to tát
Tránh suy bì thiệt hơn
 

Đến tuổi này bầu bạn
Vừa ngồi vào đã say
Chuyện xưa cùng nhau nhớ
Dở mấy vẫn còn hay

Đến tuổi này chỉ sợ
Lỡ mạo phạm thương yêu
Một chiều em phố rộng
Bỗng nghe lòng cô liêu…
 
17-11-2011


Bài ca mùa thu

Hồng Thanh Quang
Ai còn nhớ lối về xứ sở
tiền – lá - vàng mua được những vần thơ
và ánh mắt một người con gái
dài dại nhìn đời dài dại nhìn ta

Xứ sở đó có bài ca
lời tinh khiết đầu mùa hoa cúc trắng
em ngây thơ dịu dàng rám nắng
biến phố phường thành cát một bờ sông


Ai có cùng rấn bước với tôi không
lùi lại với rụt rè lỡ mất
ta bỗng cảm thấy lòng day dứt
trước sướng vui may mắn chỉ riêng mình

Tấm gương cong tôi đã mải mê tìm
xứ sở đó giữ lại soi hạnh phúc
những giọt mưa tí tách rơi  như mực
ghi vào tim giai điệu yên hoà

Ngủ ngỡ gần thức dậy thấy vời xa
xứ sở đó cỏ chớ vùi lấp dấu
hết tiền lá tôi thấy vàng trong trấu
ủ giữa lòng tiếc nuối phải vào đông...










 
 
   Nói với Tấm
Hồng Thanh quang - 1997

Trời phú đôi bàn chân nhỏ nhắn
Hoàng tử thi nhân đều phải xiêu lòng
hể khó khăn lập tức ông bụt hiện
trở ngại gì cũng vượt như không

Ừ thì cũng đoạn trường lắm lắm
hóa vàng anh thành quả thị luân hồi
nhưng chim sẻ đã nhặt giùm em thóc
bị bà già rộng mở đỡ em rơi


Hoàng tử nữa đúng là trong cổ tích
mê bàn chân yêu cả một con người
dù ai đó cũng lả lơi xinh xắn
vẫn nhớ tìm em trên mọi nẻo đời

em đáng lẽ phải rộng lòng biết mấy
chấp chi bà vợ của cha mình
giọt máu đào hẳn  hơn ao nước lã
thế mà em đã chẳng thể nương tình


Tôi cũng thích em bàn chân nhỏ nhắn
Cũng hiểu em oán trả nợ đền
Nhưng kết cục của mẹ con Thị Cám
Khiến bùi ngùi hơn những nỗi về em...