Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Ỷ Lan phu nhân



Ỷ Lan phu nhân

Bấy giờ, Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, Nhà vua và triều đình rất buồn phiền thường đi cầu tự ở các đền chùa trong nước.

Một hôm, trăm quan rước xe vua Lý Thánh Tông đi cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Hà Bắc). Nhân dân các làng ven đường, gái trai già trẻ đều đổ ra xem.

Riêng cô gái nghèo làng Sủi thì lại khác thường. Lòng cô dửng dưng trước đám rước vua. Xa xa, nghe tiếng chiêng trống khua vang, tiếng quân lính hò thét, tiếng nhân dân hò reo, cô vẫn không ngừng tay hái lá, vẫn miệt mài trong chốn nương dâu. Tới khi xe vua đến gần chị em bạn bỏ chạy ra đường xem đám rước, cô mới tạm ngừng tay trong giây lát. Nhưng cô cũng không rời nương dâu, chỉ đứng tựa gốc cây, mắt lơ đãng nhìn xa ….

Thấy bóng cô thôn nữ một mình thấp thoáng trong ngàn dâu xanh ngắt, Lý Thánh Tông lấy làm lạ, sai quân lính đòi cô đến trước xe hỏi chuyện. Thôn nữ bước tới xe vua, quì tâu :

- Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm việc đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng mẹ cha, không dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng.

Thấy cô gái xinh đẹp, ăn nói dịu dàng, ông vua hiếm con liền truyền đưa cô về kinh (Thăng Long).

Vua sai xây một cung riêng cho cô ở (tương truyền sau này là chùa Kim Cổ, nay là số nhà 73 - phố Ðường Thành - Hà Nội), đặt là cung Ỷ Lan và gọi cô là Ỷ Lan Cung phi. Cái tên Ỷ Lan (dựa gốc Lan) đặt ra để ghi lại sự tích nhà vua gặp người đẹp đứng tựa gốc cây ngày nào bên quê Bắc.

Ít lâu sau, Ỷ Lan sinh con trai (sau là Lý Nhân Tông). Lý Thánh Tông càng yêu quí nàng gấp bội. Nàng được tôn làm Ỷ Lan nguyên phi (đứng đầu các phi, sau hoàng hậu) ; con trai nàng được phong thái tử.

Năm 1069, Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt cất quân đi đánh giặc ở phương xa. Ỷ Lan được thay vua cầm quyền trị nước. Sử cũ chép rằng : bà nguyên phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hòa hiệp, cõi nước thanh bình. Dân gian sùng đạo Phật, tôn bà là “Quan Âm nữ” (Con gái đức Bồ Tát Quan Âm)

Lý Thánh Tông đánh giặc lâu ngày không thắng quay trở về. Ðến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng), vua hỏi thăm nhân dân, thấy nhân dân hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan. Vua thở than : “Kẻ kia là đàn bà còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, lại tầm thường thế hay sao?” . Lại quay đi đánh giặc, và lần này thắng to.

Hai lần chống xâm lược Tống (1075-1077), vua Lý Nhân Tông còn bé (lên 10 tuổi). Lý Thường Kiệt điều binh khiển tướng ngoài chiến trường. Bà Ỷ Lan cùng thái phó Lý Ðạo Thành dốc sức lo việc triều đình, việc hậu phương.

Ỷ Lan rất hiểu nổi đau khổ của nông dân. Khi Lý Thánh Tông mất, con bà lên ngôi, bà đã làm được một số việc có ích cho dân. Ở nông thôn bấy giờ có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình (hoặc bị mẹ cha buộc lòng phải đem bán), đem thân thế nợ, không thể lấy chồng được, bà Ỷ Lan đã lấy tiền bạc trong kho nhà nước chuộc những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ.

Ỷ Lan rất hiểu rằng đối với người dân cày “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Cho nên bà đã nhiều lần nhắc nhở vua phạt tội nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu. Tháng hai năm Ðinh Dậu (1117), năm tháng trước khi bà mất, bà còn nhắc nhở vua một lần nữa : “Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”.
   Lời khuyên vua trên đây chứng tỏ tuy Ỷ Lan sống trong cung điện triều Lý, bà vẫn quan tâm theo dõi và lo lắng đến đời sống nông dân. Vâng lời mẹ, Lý Nhân Tông hạ lệnh lùng bắt và trừng trị bọn chuyên nghề ăn trộm trâu. Không những thế việc giết trâu ăn thịt những ngày giỗ đám cũng bị hạn chế. Chính quyền Lý qui định ở Thăng Long cũng như tại các địa phương trong cả nước cứ ba nhà lập một “bảo” kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội lạm giết trâu bò.

Giỏi giang chính trị, chăm sóc kinh tế và đời sống nhân dân, Ỷ Lan còn học hỏi rộng, hiểu biết nhiều. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai quốc (tức sau này là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long), thết các sư. Tiệc xong bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật trên thế giới và ở nước ta. Bà có óc phán đoán, đòi hỏi các sư “nói có sách, mách có chứng”. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý mà đến nay ta còn biết gốc tích sự truyền đạo Phật vào nước ta.

Nhiều ngôi chùa tháp có qui mô to lớn bề thế với những dáng hình cấu trúc phong phú, bền vững, có bố cục đăng đối, có trang trí đẹp mắt đã được xây dựng lên trong “thời đại Ỷ Lan” này : chùa Giạm (Quế Võ, Hà Bắc) 1086, chùa Một mái ở động Hoàng Xá (Quốc Oai, Hà Tây)1099, chùa Phật Tích (Tiên Sơn, Hà Bắc) 1100, chùa Bảo Ân (Ðông Sơn, Thanh Hóa) 1100, tháp Chương Sơn (Ý Yên, Nam Hà) 1108, chùa Bà Tấm hay còn gọi là Linh nhân từ phúc, tức tên hiệu của Ỷ Lan (Gia Lâm, Hà Nội) 1105, vẫn hay đó căn bản là do công sức và tài khéo của nhân dân, song không khỏi có sự cổ vũ và việc giúp công giúp của của Ỷ Lan, của con bà là Lý Nhân Tông, của Lý Thường Kiệt. Sử chép rằng riêng Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã xây dựng trước sau hơn 100 ngôi chùa mà chỉ có một số ít ỏi di tích như vừa kể trên mà ngày nay vẫn thấy.

Mùa thu, tháng bảy, năm Ðinh Dậu (08-1117), Ỷ Lan qua đời. Thi hài của bà được hỏa táng theo tục lệ nhà Phật. Cho đến nay, dân gian xứ Bắc còn truyền tụng nhiều câu chuyện về Ỷ Lan mà người ta thường gọi là “Bà Tấm của xứ Bắc”

Phân tích một số từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi dân gian



TỄU Blog : Nguồn gốc các từ Buồi, Cặc.. Không rõ

Tác giả: Admin   Phân loạiKý - Tạp bút  
  Lớn | Vừa | Nhỏ
Phân tích mt s t biu th sinh thc khí nam gii trong cách gi dân gian
Người hiếu cổ
Tễu Blog

Bài viết dưới đây, Blog Người hiếu cổ xin đưa ra một nghiên cứu sơ bộ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khi nam giới trong cách gọi dân gian (thông tục). Trước tiên xin có mộtđoạn dẫn giải về tục thờ sinh thực khí và tín ngưỡng phồn thực như sau: 




Tín ngưỡng phồn thực(1) là tín ngưỡng được sùng bái từ rất lâu đời và mang tính toàn thế giới. Chúng ta ngày nay vẫn còn thấy được rất nhiều hình vẽ, họa tiết hoặc tượng và các hoạt động mang tính nghi lễ liên quan đến văn hóa phồn thực. Có thể dẫn chứng một số ví dụ sau: Theo tín ngưỡng phồn thực của Ấn Độ, Nê Pan (hoặc một số nước khác nhưChăm Pa), người ta gọi sinh thực khí của người nam là Linga, sinh thực khí người nữ là Yoni, người ta coi đó là 2 vị thần, là nguyên lý khởi nguyên của vũtrụ (âm - dương). Tại Việt Nam, tục thờ sinh thực khí ngày nay vẫn còn được lưu giữ tại các hội lễ mật tại miền Bắc, cùng với nghi thức “Linh tinh tình phọc”,hai vật tượng trưng này luôn được cất giữ rất trang trọng. Nam giới tượng trưng cho dương khí, và sinh thực khí người nam tượng trưng cho 1 trong 2 nguyên lý để hóa sinh vạn vật. Người Nhật Bản rất coi trọng sinh thực khí nam giới, chính vì thế có rất nhiều lễ hội thờ và rước sinh thực khí nam tại đây. Điển hình là lễ hội Kanamara (xem hình 3)
Tôi xin đi vào chủ đềchính của bài viết: 



Lễ hội Kanamara Nhật BảnSinh thực khí người nam giới (tức bộ phận sinh dục nam) trong vốn từ dân gian rất phong phú, có rất nhiều cách gọi. Nhưng đúng với “tính võ đoán” của ngôn ngữ, ngày nay chúng ta chỉ biết từ đó nghĩa là như thế, nhưng không hiểu vì sao nó lạiđược dùng với nghĩa như vậy. Chính vì thế, nhân đọc về nghi lễ rước dương vật của người Nhật, tôi xin đưa ra mấy suy nghĩ về nguồn gốc của các từ biểu thịsinh thực khí nam giới trong cách gọi thông tục.

Xin liệt kê những từ dùng trong dân gian (thông tục) với nghĩa chỉ sinh thực khí nam giới:
- Buồi
- Cặc
- Dái
- Nõ
Ta tìm hiểu từ “Cặc”: Từ này thực ra có liên quan đến từ “Cọc” (chữ Nôm) và “Cực” (chữ Hán). “Cực” có nghĩa là cái cột cao nhất của ngôi nhà, nôm na ta hiểu là cái cột. Mà cột với “cọc’ cùng tính chất, nên sau này người ta dùng chữ “cực” cũng với nghĩa là “cọc”. Người xưa chơi chữ rất hay, “cọc” đọc lái đi để chỉ sinh thực khí nam giới. Như vậy ta thấy ở đây có một chuỗi biến đổi khá logic: Cực – Cột – Cọc – Cặc
Vì thế mà khi đọc bài thơ “Quả mít” của Hồ Xuân Hương, ta thấy rất rõ ẩn ý của bà:
“Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay”
Lại có một minh chứng nữa cho luận giải “Cặc – Cọc”, đó chính là cụm từ “Cặc bần” của miền Tây Nam Bộ. Có câu:
“Nước chảy, cặc bầnrung bây bẩy
Gió đưa, dái mítgiãy tê tê”


Cặc bần “Bần” là một loài thực vật. Học giảVương Hồng Sển viết về cây bần như sau: “Bần là cây gỗ tạp, mọc dựa mé nước, rễnhiều, bám theo đất phù sa mà làm cho đất có phần vững chắc không trôi khi sóngđánh. Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đom đóm đậu nhiều trông rất xinh. Có trái, ăn với mắm sống rất ngon. Chúa Nguyễn Ánh được nếm qua, rất hài lòng và ban cho tên chữ là Thúy Liễu. Rễ của bần dùng làm nút ve được. Phân ra có loại bần-chua, trái lớn; và bần-ổi, trái nhỏ hơn và tương đối ít chua hơn. Xưa nay, nghề uốn và chơi kiểng, phàm cây kiểng lão và gốc bần quá già, khi nào gốc dẽra ngoài bờ ngoài nước thì gọi là nó chiếu thủy, ý nói bóng cây ấy làm dáng và dòm xuống nước”(2) Nhìn hình 4 chúng ta thầy những cái nhô lên chính là “cọc bần”, nhưng người Tây Nam Bộ gọi là “Cặc bần” chính vì hiện tượng mà tôi đã lý giải ở trên. 


***
Trong từ điển tiếng Việt, ta bắt gặp nhiều cụm từ như: Dái mít, dái tai, dái khoai,… Có một đặc điểm chung, các từ đó đều chỉ những bộ phận mà có nhô ra hoặc lồi ra ngoài. Như “dái tai” chỉ phần thịt tai chảy xệ xuống; “dái khoai” chỉ củ nhánh sinh ra theo dây khoai; “dái mít” chỉ phần quả mít non nhô ra và chưa thành hình quả(3)… (Xem hình 5)
Vậy những thứ gì nhô ra và có dáng lồi hoặc trĩu xuống thì được gọi là “dái”, vì thế chúng ta đã hiểu vì sao sinh thực khí nam giới lại được gọi là “dái” phải không nào
Tôi từng nghe một câu ca dao “Yêu nhau hai cái nõ nường”, “nõ” tức là sinh thực khí nam giới, còn “nường” là sinh thực khí nữ giới. 


Lại thấy thêm từ “nõ điếu” tức là lỗ để cho thuốc lào vào hút ở điếu cày (xem hình 6).


Cách giải thích cho từ “nõ” với từ “dái” là giống nhau, những phần nhô ra ngoài thì gọi là “nõ”.
Còn từ “Buồi” thì sao? Thực ra từnày tôi cũng chưa thực sự có một cách giải thích hợp lý. Tuy nhiên, dựa vào âmđọc và tự dạng của chữ Nôm, tôi đưa ra một giải thuyết:
“Buồi” gần âm với “Bùi” , mà từ“bùi” tôi có phân tích tại bài viết “Thâm nho nhọ đít: Nỡ lòng để con cháu không có quần áo!”: “Bùi” tức là “phi y" (không có quần áo), vì thế mà người xưa dùng nghĩa chơi chữ đó để chỉ sinh thực khí nam giới chăng?
Giả thuyết này xin được các học giả cùng bạn đọc góp ý để người viết được mở mang kiến thức. Xin chân thành cảmơn!
***
Tựu trung lại, tôi vừa đưa ra một số phân tích để sơ lược nêu ra nguồn gốc của các từ ngữ thông tục chỉ sinh thực khí nam giới để bạn đọc tham khảo. Biển học vô bờ, mọi người còn nhiều kiến thức rộng rãi hơn nữa, bài viết ở mức sơ lược, Blog người hiếu cổ rất mong được sự rộng lượng châm chước.
______________________________________
(1) Phồn thực: có nghĩa là sinh sôi nảy nở. Tín ngưỡng phồn thực hiểu đơn giản là sự sùng bái hoạt động tình dục nam nữ, coi đó là mầm mống của sự duy trì và phát triển nòi giống. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện rõ nhất trong việc thờ sinh thực khí (tức bộ phận sinh dục) của nam và nữ và các nghi lễ tượng trưng cho sự giao hợp nam nữ. (2) Tham khảo từ http://lophocvuive.com/diendan/f14/c%E1%BA%B7c-b%E1%BA%A7n-v%C3%A0-d%C3%A1i-m%C3%ADt-4430/
(3) Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự vị, Sài Gòn, 1895, trang 215


ĐÃ TÌM THẤY CÂU THƠ..."CANH GÀ THỌ XƯƠNG" TRONG "DƯƠNG GIA PHẢ KÝ"



Bùi Văn Bòng:Đi đến ngọn nguồn''Canh gà Tho xương'' Không rõ

Tác giả: Admin   Phân loạiPhê bình, tiểu luận  
  Lớn | Vừa | Nhỏ

Cần đi đến ngọn nguồn "canh gà Thọ Xương"
bvbqd 17.10.2012  
ĐÃ TÌM THẤY CÂU  THƠ..."CANH GÀ THỌ XƯƠNG" TRONG "DƯƠNG GIA  PHẢ KÝ"







            Gió đưa cành trúc la  đà
Tiếng  chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt  mù khói tỏa cành sương
Nhịp  chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
                  Mấy câu thơ lục bát  trên đã thêm một lần gây xôn xao mặt sóng thế giới phẳng. Khắp trên các mặt báo,  các trang mạng xã hội đã diễn ra các cuộc tranh luận từ hàng tuần nay, và đến  giờ này cơ hồ còn chưa tạm lắng. Tựu trung, thì người ta tranh luận, đại để các  vấn đề sau:
1- Câu thơ này có đúng là của  Dương Khuê (1839 - 1902) không? Có tư liệu Hán Nôm nào chép mấy câu thơ này  không? Chữ "canh" chép chữ canh là canh (món canh, bát canh/súp) hay  canh là canh  khuya, canh giờ, canh chầy?
2- Canh gà Thọ Xương là "món canh gà" hay là canh giờ,  canh khuya?
3- Thọ Xương ở trong mấy câu  thơ trên là địa danh ở đâu?
Nguyễn Xuân  Diện:
1.Đã tìm thy câu thơ ..."Canh  gà Th Xương"
trong "Dương Gia ph  ký"
             Trước hết, cho  đến nay, sau nhiều năm tìm hiểu về thi văn của các tác gia họ Dương ở Vân Đình  (Ứng Hòa, Hà Tây cũ) [ít nhất là từ năm 1993], chúng tôi chưa từng gặp  một văn bản Hán Nôm nào chép bài thơ trên.



            Bức thư của Ông  Dương Nghiệp Bảo (Bernard Donge), lúc đang giữ chức Tổng thanh  tra Ngân hàng Phát triển Á Châu ADB, trụ sở tại Philippines gửi Nguyễn Xuân Diện  đề ngày 18.10.1994. Khi ấy, vì ông mới chỉ đọc bài viết, chưa gặp nhau nên ông  gửi thư cho "Cụ Nguyễn Xuân Diện"(năm ấy 24 tuổi). Ông Dương Nghiệp Bảo  là cháu nội Cụ Dương Lâm.
           Chúng tôi xin giới  thiệu tài liệu "Dương Gia phả ký", bản đánh máy chữ quốc ngữ trên giấy tây, do  Dương Thiệu Cương lập vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu (1973) và được Dã Lan Nguyễn  Đức Dụ in ấn. Cuốn này chúng tôi có copy được 1 bản từ dòng họ Dương ở Vân Đình  vào năm 1993 - 1994.
           "Dương Gia phả ký" gồm 122 trang, ngoài việc  chép về thế thứ gia tộc họ Dương còn chép khá nhiều thơ văn, đối liễn của các  tác gia họ Dương.
           Bắt đầu từ trang 106, có chép "thi ca của Cụ  Dương Khuê, tức cụ Nghè Vân Đình, biệt hiệu Vân Trì", cũng ngay trang này, ở bài  thứ hai, là bài "Hà Thành tức cảnh", gồm 4 câu thơ:
Phất phơ cành trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn - Võ, canh gà Thọ -  Xương.
Mịt mùng khói tỏa ngàn sương,
Dịp chày An - Thái, mặt gương Tây -  Hồ.
Như vậy, căn cứ theo đầu bài  thì đây chính là cảnh ở Hà Thành tức là Hà Nội, và Thọ Xương là tên địa  danh thuộc Hà Nội.
            *Trong sách  Tâm trạng Dương Khuê -  Dương Lâm, Nxb KHXH, Hà Nội, 2005, tác giả Dương  Thiệu Tống cho biết: "Bài thơ này chép và chú thích theo Dương  gia phả kýLuận đề về  Dương Khuê"(trang 129). (Nguyễn Duy Diễn:  Luận đề về Dương Khuê.  Nhà in Khai trí, Sài Gòn, 1960, trang 160). Như vậy, từ năm 1960, tài  liệu Luận đề về Dương  Khuê đã khẳng định bài Hà thành tức  cảnh là của Dương Khuê.
            Nhưng xưa hơn thế,  sách Văn đàn bảo giám, tuyển tập thơ  ca do Trần Trung Viên sưu tập, do Dương Bá Trạc đề tựa, Tản Đà đề tựa năm  1934...gồm 3 tập xuất bản lần đầu từ năm 1926 đến năm 1938 thì trọn bộ.  Văn đàn bảo giám cũng khẳng định  Hà Nội tức cảnh là của tác giả Dương Khuê.  Tuyển tập thi ca Văn đàn bảo  giám xuất bản chỉ cách năm Dương Khuê tạ thế (1902) khoảng hai ba  chục năm, vì thế, có thể tin được.
Dưới đây là ảnh chụp vài trang liên quan trong  Dương Gia phả ký:





Nguyễn Ngọc  Thanh

2.“Canh gà Th Xương” có thc s là món súp gà hay  không?

Blog người hiếu cổ - Thời  gian gần đây, nổi cộm trên các phương tiện thông tin đại chúng là chuyện cô giáo  dạy cho các em học sinh câu ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ  canh gà Thọ Xương” rằng: “Canh gà Thọ Xương là món ăn nổi tiếng, đặc sản của  làng Thọ Xương”. Ngay khi tin này được đăng thì dư luận đã có những phản hồi vô  cùng quyết liệt, rằng cô giáo dạy sai. Ngay sau đó tôi lại đọc được thông tin  rằng cô giáo đó đã bị đánh nhập viện!!!
Tôi trên những hiểu  biết cá nhân thì thấy quả thực cô giáo này không đáng phải chịu búa rìu dư luận  lớn đến vậy. Vì sao? Vì cô ấy quả thực đã sai, nhưng cái sai đó lỗi không  hoàn toàn ở cô ấy…  
Dưới đây, tôi xin viết đôi điều để bạn đọc có cái nhìn  đúng đắn hơn về bài “ca dao” có cụm từ “canh gà Thọ Xương” gây tranh  cãi:
Bài “ca dao” gây tranh  cãi trên thường được biết đến với nội dung:
“Gió đưa cành trúc la  đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà  Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn  sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây  Hồ”  (A)
Hoàn toàn ta thấy đây  là một bài tả cảnh Hà Nội với các địa danh: chùa Trấn Vũ, ngõ/huyện Thọ Xương,  làng Yên Thái (An Thái), và Tây Hồ. Tuy nhiên ngay về vấn đề văn bản của bài này  đã là vấn đề không rõ ràng rồi, các sách giáo khoa cũng như các sách lịch sử văn  học tôi cũng chưa thấy ghi rõ. Vì vậy, việc xác định văn bản học của bài thơ này  chủ yếu dựa vào những ghi chép của các thế hệ đi trước. Trong cuốn sách  “Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội” của Hoàng Đạo Thúy[1] có ghi chép khung cảnh Hà Nội:  
"Những buổi sớm tinh  sương mùa đông, khách dạn sương đi trên đường Thanh Niên không thấy trời, không  nhìn rõ mặt nước, trên đầu cành lá rũ nặng giọt, bên trái lung linh ánh trăng úa  hạ huyền; lúc ấy lòng lâng lâng, không ngâm mà cũng như ngâm câu thơ cổ: Phất  phơ ngọn trúc trăng tà... Gà xóm bên hồ đã gáy, chuông hồi đã đổ dồn,  đồng bào Bưởi đã dậy giã dó từ lâu. Mặt trời mới hé trên đê Yên Phụ mở ra một  tấm gương phẳng lặng rắc phấn  hồng
Qua mô tả của Hoàng Đạo  Thúy, ta dễ dàng thấy được nội dung trùng khớp với bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của  Dương Khuê (1839 - 1902) với nội dung:
“Phất phơ ngọn trúc trăng  tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ  Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn  sương
Nhịp chày An Thái, mảnh gương Tây  Hồ[2]  (B)
Vì vậy, “canh gà” ở đây không nói đến món canh/súp gà.  Tôi cũng nghe một số biện giải của nhiều người là nghe kể ngày xưa ở Thọ Xương  cũng có món canh gà nổi tiếng, nhưng đa phần đều là tư biện và không có căn  cứ.
Tạm gác chi tiết “canh gà”, ta đi vào tìm hiểu một  chút diễn biến văn bản của bài thơ này.Sách Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm[3] , Dương Thiệu  Tống là cháu của Dương Khuê có ghi dòng nhận xét về câu lục mở đầu: "Có người đã  sửa đổi câu thơ này là Gió đưa cành trúc la đà, nhưng có lẽ là sai vì làm  mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ có ý nghĩa tả cảnh mà  thôi".
. Vấn đề nảy sinh ở đây  là: Ai đã sửa câu lục trong bài thơ này thành “Gió đưa cành trúc la  đà”?
Tôi liên tưởng tới một bài thơ khác tả cảnh Huế khá  giống bài thơ của Dương Khuê là:
"Gió  đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên  Mụ, canh gà Thọ Xương.
Thuyền về xuôi mái  sông Hương,

Biết đâu tâm sự đôi  đường đắng cay” (C)  
            Bài thơ này  cũng đã được phổ thành nhạc trong bài hát “Thương về cố đô” của nhạc sĩ  Châu Kỳ, khi đó bài thơ này đã được công nhận như một bài ca dao trong kho tàng  Văn học dân gian Bình Trị Thiên (1987), nhạc sĩ Châu Kỳ chỉ dùng nó như  một chất liệu sáng tác mà thôi. Một hồi tìm kiếm, tôi mới thấy hai câu thơ đầu  xuất hiện trong cuốn hồi ký “Mười ngày ở Huế”[4], nói về quãng thời gian ở Huế của học giả Phạm Quỳnh.  Trong đó có viết một đoạn tả cảnh Huế như sau:
“Gió đưa cành trúc la  đà
Tiếng chuông Thiên Mụ  canh gà Thọ Xương
Cả cái  hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một  chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương  thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa  văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con  trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế.” (Phần  IV)
Như vậy là học giả Phạm Quỳnh đã dùng ý tứ của thơ  Dương Khuê để viết lại cho hợp với cảnh và địa danh ở Huế, có chùa Thiên Mụ và  có làng chài Thọ Xương (còn có tên là Thọ Khương, Thọ Cương, Long Thọ). Chúng ta  có thể đưa ra phán đoán:
Hoặc là Phạm Quỳnh viết dựa trên thơ Dương  Khuê
Hoặc là sử dụng chất liệu văn hóa dân gian bản  địa
Nhưng dù là trường hợp  nào thì văn bản (C) cũng là một chi tiết quý giá.  
Vì thế, bản (A)  có thể được phán đoán bằng sự “lai” giữa hai bản (B) và (C).  
Cũng qua các chi tiết trên, mảy may không hề thấy chỗ  nào đề cập đến món canh (súp) gà Thọ Xương. Hơn nữa, chúng ta cần hiểu logic bài  thơ tả cảnh, đang có gió, có cành trúc, có tiếng chuông, có nhịp chày giã giấy,  có mặt nước hồ long lanh, dẫu có thêm món canh (súp) gà vào cũng thật là vô  duyên và không hợp  lý.
------------------------------------
[1] Cuốn  đầu in bởi Hội văn nghệ Hà Nội năm 1969, tái bản nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng  Long Hà Nội năm 2010
[2]  Trích lại tài liệu theo bài của Vô Ưu trên http://www.baomoi.com
Dẫn  theo Trần Trung Viên trong Văn đàn bảo giám, cuốn 3, NXB Nam Ký, Hà Nội, 1926;  Mặc Lâm tái bản, Sài Gòn, 1969, trang 159; tài liệu do nhà phê bình Đặng Tiến  cung cấp. Trong Thơ văn Hà Nội do Trần Huy Liệu chủ biên, cũng viết như  vậy.
[3]  Dương Thiệu Tống, Tâm trạng của Dương Khuê và Dương Lâm, Nxb. Khoa học Xã hội,  HN, 2005.
[4] Quý  vị độc giả có thể đọc toàn văn hồi ký “Mười ngày ở Huế” tại Blog của Phạm Quỳnh  ở địa chỉ:
Hoặc:  Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb. Văn học,  H.2001.
Nguồn: Người Hiếu cổ Blog.

11h27' ngày  17.10.2012
>> (BVB - Nguồn tư liệu này có lý, có cơ sở khoa học và  nguồn tư liệu gốc - Người làm thơ không thể đang say sưa tả cảnh, cảm thanh mà  lại nói đến món ăn - ẩm thực - Nhà thơ đâu có đói đến mức ngắm cảnh, tức cảnh  sinh tìn,  thi hứng đang nồng với cành trúc bên hồ, màn sương khói mơ màng, nghe  tiếng chày giã gạo, tiếng chuông, tiếng gà gáy...mà lại xen món ăn đặc sản vào  bài thơ lục bát có 4 câu thì còn đâu là thơ nữa? Lục bát, đâu phải là đói, lục  lọi, lục tìm cái bát để ăn canh gà? Thơ đứng được bởi tứ...Bài thơ hay về phong  cảnh Tây Hồ như thế mà lại xen món ăn đặc sản vào thì phá mất tứ thơ còn đâu?  ).
             > Nhưng mà, cần nhìn nhận sâu  xa vấn đề, chuyện này không nên trách cô giáo, mà là hậu quả của nền giáo dục  suy đồi, xuống cấp, thiếu căn bản. Có thể từ người thầy dạy cô giáo năm xưa đã  giải thích như vậy. Có thể đây là "thói quen" chấm nhanh và nâng điểm để lấy  thành tích, nếu không có tỉ lệ học sinh khá, giỏi cao thì cô giáo bị ban giám  hiệu phê bình, lại khó lên lương...Cái sự hô hào "hai không", rồi "4 không" của  ông Nguyễn Thiện Nhân đã cuốn gói theo ông ta, khi mà ông không còn làm Bộ  trưởng GD nữa, nay thì không thể "không" được chuyện gì...Và, có thể từ nhiều  nguyên nhân khác.
            Nhưng qua chuyện này, nhân cách của cô giáo hơn hẳn nhiều vị quan cách mạng  khác, chỉ là chấm sai điểm một bài văn học trò mà cô giáo xin thôi, không dạy  học nữa. Đã có biết bao quan tham (bộ phận không nhỏ) hiện nay đã tàn  phá hại dân hại nước, làm nghèo đất nước, đẩy cuộc sống người dân vào vòng cơ  cực, nhưng có ai xin từ chức  đâu...he he...